Lịch sử nước ta là lịch sử của những cuộc kháng chiến vĩ đại chống lại quân xâm lăng nối tiếp nhau. Trong suốt chiều dài lịch sử đó, hình ảnh người chiến sĩ trở thành đề tài quen thuộc trong nền văn học nước nhà. Là nhà thơ quân đội, Chính Hữu viết nhiều về người lính và dành riêng cho họ một tình cảm ưu ái, trân trọng. Từ thực tế gian nan, máu lửa, với cảm xúc chân thành của người trong cuộc, tác giả đã viết nên bài thơ “Đồng chí”, một trong những bài thơ hay nhất về người chiến sĩ trong thơ ca Việt Nam hiện đại. Bài thơ ra đời năm 1948, in trong tập Đầu súng trăm treo. Trải qua hơn nửa thế kỉ, bài thơ đã trở thành người bạn tâm tình của nhiều thế hệ cầm súng chống Pháp và chống Mĩ.
quyền: độc lập tự do thiêng liêng của dân tộc. Trong cuộc sống đầy gian khổ, hi sinh, chiến sĩ ta gắn bó chặt chẽ với nhau. Một tình cảm mới mẻ đã nảy sinh và ngày càng trở nên sâu sắc, đó là tình đồng chí. Chinh Hữu đã ghi lại tình cảm cao quý ấy trong bài thơ mộc mạc mà có sức rung cảm lạ thường. Bài thơ mở đầu bằng những lời tâm sự chân tình:
Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau,
Súng bên súng, đầu sát bên đầu,
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.
Đồng chí!
Đó là lời trao gửi tâm tình của hai người lính xa quê vào những phút giây nghỉ ngơi ngắn ngủi sau chặng hành quân dài vất vả, sau một trận đánh ác liệt hay trong đêm rừng cùng nhau phục kích quân thù.
Điều làm cho mọi người dễ xích lại gần nhau là những câu chuyện quê hương, Quê hương anh và làng tôi, cách gọi chứa đựng tình cảm gắn bó thiết tha. Không thấy nhắc đến tên một địa phương cụ thể nào, chỉ biết rằng quê hương anh là vùng đồng bằng nước mặn đồng chua. Câu thơ gợi nhiều hơn tả. Thành ngữ nước mặn đồng chua đi vào câu thơ rất tự nhiên, khiến người đọc liên tưởng đến một vùng đồng chiêm trũng ven biển quanh năm úng lụt. Cuộc sống người dân ở đây rất gieo neo, cơ cực.
Còn làng tôi là một làng nghèo ở vùng trung du đồi núi, đá sỏi cây cằn, đất đai quý hơn vàng bạc. Con người phải đổi bát mồ hôi lấy bát cơm.
Cả hai vùng quê đều nghèo nàn, lam lũ. Nghèo và cực truyền từ đời này sang đời khác, năm này sang năm khác… Ấy vậy mà lúc xa quê, ai cũng thương cũng nhớ đến quặn lòng. Chính Hữu vốn nặng tình nặng nghĩa với làng quê Việt Nam nên khi nhắc đến, giọng thơ anh xao xuyến, bồi hồi khó tả. Chỉ qua hai câu thơ thôi tác giả đã nêu rõ thành phần xuất thân của người chiến sĩ. Phần lớn họ là nông dân nghèo khổ. Theo tiếng gọi cứu quốc, họ tạm xa con trâu, mảnh ruộng đế cầm súng giết giặc. Ra đi chiến đấu, mỗi người để lại sau lưng nơi chôn nhau cắt rốn với luỹ tre xanh, với mái tranh nghèo quen thuộc và những người thân yêu nhất. Không hẹn mà nên, những người nông dân ấy gặp nhau tại một điểm: lòng yêu nước. Tình yêu quê hương, gia đình, nghĩa vụ công dân thúc giục họ lên đường chiến đấu. Bởi thế nên từ những phương trời xa lạ, mọi người chẳng hẹn mà quen nhau. Giống như những anh lính trong bài thơ Nhớ của Hồng Nguyên:
Lũ chung tôi bọn người tứ xứ,
Quen nhau từ buổi “một, hai”.
Súng bắn chưa quen,
Quân sự mươi bài,
Lòng vẫn cười vui kháng chiến.
Trong môi trường quân đội, đơn vị thay cho mái ấm gia đình, tình đồng đội thay cho tình máu thịt. Cái xa lạ lần đầu nhanh chóng bị xóa đi. Sát cánh bên nhau chiến đấu, càng ngày họ càng cảm nhận sâu sắc về sự hoà hợp, gắn bó giữa đồng đội cùng chung lí tưởng và hành động:
Súng bên súng, đầu sát bên đầu,
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Ngày cùng chung nhiệm vụ chiến đấu, chia nhau gian khổ, hiểm nguy, đêm đắp chung một chiếc chăn đơn, qua tâm sự vui buồn, họ thành tri kỉ. Khi đà thành tri âm tri kỉ rồi thì ngọt bùi san sẻ, sống chết có nhau.
Trong kháng chiến chống pháp, có một bài ca dao vui nói về cuộc sống gian khổ và tinh thần lạc quan của chiến sĩ ta. Ba anh lính đáp chung một chiếc chăn đơn nên: Thằng kín cái đầu, thằng hở cái chân. Loay hoay mãi cũng vậy. Bên ngòai, gió rừng thổi ào ào, lạnh thấu xương. Ba anh bèn nảy ra sáng kiến: … Ba thằng quặp chặt và ngạo nghễ thách thức: gió lùa vào đâu? Họ ôm lấy nhau, truyền hơi ấm, tình cảm cho nhau.
Giữa những lúc cơ cực thiếu thốn và thử thách ghê gớm của buổi đầu kháng chiến, tình đồng đội đã trở thành tình đồng chí thiêng liêng vô hạn. Đồng chí đứng tách riêng ra khỏi khi thơ như một tiếng gọi thốt lên tự đáy lòng với bao tình cảm mến thương, trân trọng. Không còn một khoảng cách nào giữa những người chiến sĩ. Từ chỗ xa lạ đến quen nhau và giờ đây họ thành đồng chí của nhau, kề vai sát cánh chiến đấu đế giải phóng quê hương, đất nước.
Nối tiếp dòng cảm xúc là suy nghĩ của tác giả về đồng đội:
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi.
Áo anh rách vai .
Quần tôi cỏ vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.
Là lao động chính của gia đình, giờ các anh đi chiến đấụ, bao khó khăn vất vả sẽ đè nặng lên vai cha già, mẹ yếu, vợ dại, con thơ. Biết chắc là như thế nhưng các anh vẫn quyết ra đi cứu nước vì cứu nước là cứu nhà. Ruộng vườn thì gửi bạn thân cày; gian nhà tranh cù kĩ, xiêu vẹo đành mặc kệ gió lung lay. Mặc kệ nghĩa là dẹp hết chuyện riêng tư sang một bên để lo đánh giặc trước đã. Phảng phất đâu đây cái chí của Người ra đi đầu không ngoảnh lại (Nguyễn Đình Thi). Đây là phong thái, là cách nói dân dã, mộc mạc của người nông dân. Hai cách nói khác nhau nhưng cùng chung một thái độ: dứt khoát đưa nhiệm vụ cứu nước lên trên hết.
Xác định như vậy để đỡ lưu luyến lúc ra đi chứ không phải để mà quên. Ai mà đoạn tình đoạn nghĩa được với quê hương, gia đình? Ở chiến trường, lúc này lúc khác, các anh vẫn nhớ về hậu phương với nỗi nhớ thiết tha và hình ảnh ruộng nương, bè bạn, mái tranh nghèo tưởng chừng như dang lung lay trước cơn gió mạnh, lại hiện ra rõ ràng trong tâm trí các anh.
Làng quê Việt Nam bạo đời gắn bó với hình ảnh của cây đa, giếng nước, sân đình. Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính là cách nói khác đi về nỗi nhớ sâu nặng cúa các chiến sĩ đối với quê hương, xứ sở. Nỗi nhớ ấy, tình yêu ấy đà đem lại cái hồn cho cảnh vật. Người nhớ cảnh, cảnh nhớ người. Chính tình yêu quê hương làng xóm đã thôi thúc các anh chiến đấu và chiến thắng quân thù.
Trải qua cuộc sông gian khổ biết bao điều gắn bó chiến sì ta lại với nhau:
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi.
Tôi với anh chung cảnh ngộ, anh với tôi chung một lí tưởng, chung đội ngữ và tôi với anh giờ đây lại chung cả những cơn sốt rét rừng ghê gớm. Cái căn bệnh quái ác mà lính ta anh nào cũng sợ. Sợ mà không sao tránh khỏi. Nhà thơ nhắc đến chuyộn này như nhắc đến một kỉ niệm khó quên trong tình bạn.
Bài thơ đem lại sự rung động sâu sắc khi dựng nên được hình ảnh trung thực và giản dị của anh bộ đội cụ Hồ:
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Dẫu kháng chiến, chúng ta đánh Pháp trong hoàn cảnh cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc nên chiến sĩ ta có gì mặc nấy. Ở giữa rừng sâu kim chỉ chẳng có, rách đâu lấy dây rừng cột túm đấy. Và vậy mới thành những giai thoại vui về các anh Vệ túm, Vệ trọc, giản dị, sơ sài mà vẫn không kém oai phong. Thiếu thốn, gian khổ là thế mà vẫn vui vẻ tin tưởng. Miệng cười buốt giá… là thái độ coi thường thử thách, khó khăn, là chất lạc quan đến thanh thản của những con người hồn nhiên, giản dị. Đó cũng là cách dũng thuộc về bản chất của con người Việt Nam. .
Đọc đôn đây, ai mà không cảm động trước hình ảnh cha ông mình đánh giặc giừa trăm ngàn thiếu thốn. Có thế mới hiểu hơn, thương quý hơn những lớp người đi trước, say mê đánh giặc với vũ khí tự tạo:
Lột sắt đường tàu
Rèn thêm đao kiếm
Áo vải chân không
Di lùng giặc đánh
(Hồng Nguyên)
Khác chi người lính Tây Sơn áo vải cờ đào, khác chi người nông dân mến nghĩa làm quân chiêu mộ, chẳng cần qua mười tám ban võ nghệ vẫn anh dũng lao vào cuộc chiến đấu chống xâm lãng với rơm con cúi, lưỡi dao phay mà cùng làm nên chiến thắng.
Có sự gặp gờ lạ kì giữa xưa và nay, tạo nên hình ảnh truyền thống của người dân Việt Nam ngàn đời đánh giặc.
Bao thiếu thốn vật chất được thay thế bằng tình thương yêu sâu sắc của đồng đội:
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.
Có lẽ không ngôn ngữ nào diễn đạt cho hết tình đồng chí thắm thiết trong hoàn cảnh ấy. Cái xiết tay thật chặt và ánh mắt cảm thông, tin cậy đủ nói thay cho tất cả.
Đoạn kết của bài thơ thật đẹp. Nó dã tạc vào thơ ca hiện đại chân dung người chiến sĩ mộc mạc, đơn sơ mà khoẻ khoắn, hào hùng:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặt: tới
Đầu súng trăng treo.
Chất hiện thực nghiệt ngã và lãng mạn bay bổng hoà quyện với nhau. Cảnh vẫn là cảnh rừng hoang, sương muối âm u, lạnh giá nhưng dường như nó không con de doạ được con người nữa mà trái lại, nó bị đẩy lùi ra tít phía sau, nhường chỗ cho hình ảnh của đồng đội đang sát cánh bên nhau trong tư thế sẵn sàng chiến đấu.
Tình đồng chí đã sưởi ấm lòng người chiến sĩ, chắp cánh cho tâm hồn họ bay bổng. Đêm khuya chờ giặc, trăng đã xế ngang tầm súng. Và lạ lùng thay, như một khám phá bất chợt, thú vị: Đầu súng trăng treo. Câu thơ như một tiếng reo vui chứa đựng bao ý nghĩa. Trong sự tương phản giữa hai hình ảnh súng và trăng, người đọc vẫn tìm ra được môi quan hệ gần gũi. Súng tượng trưng cho tinh thần quyết chiến để bảo vệ hoà bình. Trăng tượng trưng cho cái đẹp và cuộc sống yên vui. Súng và trăng là biểu tượng sóng đôi của dân tộc Việt Nam dũng cảm, hào hoa muôn thuở, đồng thời nó cung thể hiện rõ nét cái tư thế chủ động, tin tưởng và tâm hồn lạc quan, yêu đời của chiến sĩ ta.
Như tên gọi của nó, bài thơ Đồng chí là bức chân dung sống động về anh bộ đội Cụ Hồ buổi đầu kháng chiến. Chính Hữu đã khắc hoạ hình ảnh người chiến sĩ với tấm lòng cảm phục và mến thương sâu sắc. Bài thơ lưu lại mãi mãi trong kí ức bao thế hệ cầm súng chống xâm lăng từ đó đến nay. Bởi thế, nhắc đến tác giả là người đọc nhớ ngay đến bài thơ. Chỉ thế thôi cũng là điều thật đáng quý đối với người sáng tác.