Đề bài: Làm sáng tỏ nhận
định: "Nghệ thuật chỉ làm nên câu thơ, trái tim mới làm nên thi sĩ" (Andre Chenien) qua các tác phẩm của Nguyễn Du.
Bài làm
Thơ là một hình thái nghệ thuật cao quý, tinh
vi. Thơ thường chú trọng đến cái đẹp, đến hình thức thể hiện mang dấu ấn cá
nhân của chủ thể sáng tạo. Bởi thế không tự nhiên mà người xưa cho rằng
"thi trung hữu họa", "thi trung hữu nhạc". Tuy nhiên,
"thơ trước hết là cuộc đời, sau mới là nghệ thuật" (Bielinxki). Một
bài thơ hay không chỉ có hình thức nghệ thuật đặc sắc mà quan trọng, phải là
những tình cảm, những rung cảm mãnh liệt, chân thành của người nghệ sĩ:
"Nghệ thuật chỉ làm nên câu thơ, trái tim mới làm nên thi sĩ" (Andre
Chenien).
Nghệ thuật chỉ làm nên câu thơ, trái tim mới làm nên thi sĩ |
Nhận định của Andre Chenien đã khẳng định đặc
trưng của thi ca và vai trò của người nghệ sĩ trong quá trình sáng tạo nghệ
thuật. "Nghệ thuật" là yếu tố hình thức tạo nên nét đặc trưng cho bài
thơ. Một bài thơ có giá trị phải có những sáng tạo nghệ thuật độc đáo được làm
nên từ tài năng thiên phú của người nghệ sĩ. Nhưng, "nghệ thuật chỉ làm
nên câu thơ" còn "trái tim mới làm nên thi sĩ". "Trái
tim", đó là thế giới tâm hồn nhà thơ chứa đựng những tư tưởng, tình cảm,
những rung động trước cuộc đời… Chính thế giới tâm hồn ấy đã làm nên cái hồn
thơ, là yếu tố không thể thiếu của một nghệ sĩ chân chính.
Thơ là sự thổ lộ cảm xúc một cách mãnh liệt,
nghĩa là trong thơ phải có tình. Nếu thơ chỉ vẻn vẹn những hình thức nghệ thuật
hoa mĩ mà không có những rung cảm mãnh liệt từ trái tim người nghệ sĩ khi đứng
trước cuộc đời, thì những hình thức ấy dù đẹp, dù hấp dẫn đến đâu cũng chỉ làm
nên bài thơ có xác mà không có hồn. Thơ phải là tiếng nói trữ tình, tiếng nói
của cảm xúc, phải là thư kí trung thành của trái tim. Tâm hồn người nghệ sĩ mới
là yếu tố quan trọng làm nên những câu thơ có tầm tư tưởng, những câu thơ có
thể chạm đến cõi sâu kín nhất trong tâm hồn con người.
Andre Chenien đã nhấn mạnh đến những rung cảm
thẩm mỹ của người nghệ sĩ. Tuy nhiên, một tác phẩm thực sự có giá trị đều phải
là "một khám phá về nội dung, một phát minh về hình thức"(L.Lêônôp).
Cái tài và cái tâm, "nghệ thuật" và "trái tim" đều là những
nhân tố quan trọng để hình thành một tác phẩm thơ ca nổi tiếng và một nhà thơ
vĩ đại. Trong hai yếu tố đó, cái tâm được coi là yếu tố cốt lõi để làm nên một
tác phẩm nghệ thuật chân chính. Và, điều đó đã được kết tụ đầy đủ trong con
người đại thi hào dân tộc Nguyễn Du.
Sinh ra và lớn lên trong những cái nôi văn
hóa của đất nước cùng những trải nghiệm trong môi trường quý tộc và cuộc sống
phong trần đã sớm hình thành ở Nguyễn Du tài năng thi ca và một trái tim đa sầu
đa cảm. Ông đã trở thành nhà thơ lỗi lạc trên cả hai phương diện nội dung và hình
thức. Xét về hình thức thể hiện, Nguyễn Du được mệnh danh là ngòi bút thiên tài
trong sáng tạo nghệ thuật. Cả thơ chữ Hán và chữ Nôm đều đạt đến độ chuẩn mực.
Thơ chữ Hán thì sắc sảo, tinh luyện, thơ chữ Nôm thì xứng đáng là đỉnh cao của
văn học trung đại Việt Nam. Trong thơ chữ Nôm nổi bật là kiệt tác "Truyện
Kiều". Với "Truyện Kiều", nhà thơ đã thành công trong nghệ thuật
xây dựng nhân vật điển hình. Ta chú ý hơn cả đến nhân vật điển hình Mã Giám
Sinh:
"Mày râu
nhẵn nhụi áo quần bảnh bao
Trước thầy sau
tớ lao xao…”
Hay:
“…Ghế trên
ngồi tót sỗ sàng."
Chỉ bằng vài nét vẽ, Nguyễn Du đã khắc họa
một cách hoàn chỉnh về diện mạo và tính cách của Mã Giám Sinh. Qua đó, gửi vào
nhân vật ý nghĩa khái quát cho một hạng người giả dối, bất nhân, vô học trong
xã hội.
Có ý kiến cho rằng, để lột tả bản chất của họ
Mã, Nguyễn Du chỉ cần một từ "tót". Ngay từ khi chưa bước vào cuộc
mua bán người đọc vẫn nhận ra đó là một kẻ vô giáo dục, không đáng tin. Bởi
vậy, nhiều nhà phê bình khẳng định: "Nguyễn Du có cái tài lột tả cái thần
của nhân vật chỉ bằng một từ". Không chỉ lột tả chính xác cái thần của
nhân vật, nhà thơ còn lột tả chính xác cái thần của cảnh vật:
"Cỏ non
xanh tận chân trời
Cành lê trắng
điểm một vài bông hoa."
Từ "tận" và từ "điểm"
được coi là nhãn tự của câu thơ mở ra một bức tranh mùa xuân tuyệt đẹp vừa có
đường nét, vừa có hình khối, màu sắc. Không gian nhẹ nhàng trải dài đến vô tận
với gam màu chủ đạo là xanh non. Trên nền xanh ấy xuất hiện hình ảnh cây lê mới
chỉ điểm xuyết "một vài bông hoa" trắng mang đến cho bức tranh xuân
vẻ đẹp mới mẻ, nhẹ nhàng, tinh khôi, tràn đầy sức sống.
Vì cái tài sử dụng ngôn ngữ mà "Truyện
Kiều" đã trở thành "tòa lâu đài ngôn ngữ thi ca". Nhưng, cái tài
của đại thi hào không chỉ dừng lại ở đó. Nghệ thuật chuẩn mực còn thể hiện
trong nghệ thuật khai thác nội tâm, phân tích tâm lí nhân vật sâu sắc:
Dù em nên vợ
nên chồng
Xót người mệnh
bạc ắt lòng chẳng quên…
Mai sau dù có
bao giờ."
Chỉ bằng một từ duy nhất – "dù",
Nguyễn Du đã lột tả tận cùng nỗi đau và tâm trạng của người con gái lỡ làng vì
chuyện tình duyên tan vỡ. Duyên đã trao, kỉ vật đã trở thành của chung nhưng
thực lòng Kiều không muốn như vậy. Tất cả chỉ là giả định, là "dù em nên
vợ nên chồng", là "mai sau dù có bao giờ". Một sự lúng túng rất
nhỏ nhặt trong lời nói của Kiều đã bộc lộ tài năng của thi hào.
Cũng là miêu tả tâm lí nhân vật nhưng có lẽ,
tài năng tả cảnh ngụ tình của Nguyễn Du mới là mẫu mực:
"Buồn
trông cửa bể chiều hôm.
Thuyền ai thấp
thoáng cánh buồm xa xa
Buồn trông
ngọn nước mới sa.
Hoa trôi man
mác biết là về đâu.
Buồn trông nội
cỏ rầu rầu.
Chân mây mặt
đất một màu xanh xanh
Buồn trong gió
cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng
sóng kêu quanh ghế ngồi."
Đoạn thơ là tả cảnh nhưng thực chất nhà thơ
đang tả tình – tâm trạng lo âu, bế tắc của nàng Kiều trong khoảng lặng trước
dông bão. Cảnh vật đi từ xa đến gần, mầu sắc đi từ nhạt đến đậm, âm thanh đi từ
tĩnh đến động diễn tả nỗi buồn ngày càng nâng cao, mở ra một tâm trạng khác
nhau. Lấy cảnh để tả tình, lấy thiên nhiên để lột tả chính xác tâm trạng con
người đã trở thành một bút pháp mang tính quy luật trong các sáng tác của nhà
thơ:
"Cảnh nào
cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn
cảnh có vui đâu bao giờ."
Chính những nét độc đáo về nghệ thuật ấy đã
đem đến sức hấp dẫn và lôi cuốn lạ lùng cho kiệt tác "Truyện Kiều".
Nhưng sức sống lâu bền của kiệt tác trong lòng dân tộc lại là do "con mắt
nhìn đến sáu cõi, tấm lòng nghĩ đến nhìn đời" của đại thi hào Nguyễn Du.
Con mắt đó, tấm lòng đó là một trái tim yêu mãnh liệt, một trái tim nhân đạo vĩ
đại đã cảm thương sâu sắc cho nỗi khổ đau của con người:
"Kìa
những đứa tiểu nhi tấm bé
Lỗi giờ sinh
lìa mẹ lìa cha
Lấy ai bồng bế
xót xa
U ơ tiếng khóc
xót xa nỗi lòng."
Trong "Văn tế thập loại chúng
sinh", Nguyễn Du đã cất lên tiếng khóc cao cả và vĩ đại cho những số phận
bi thảm trong xã hội mục rỗng bạo tàn, thậm chí đó chỉ là những đứa tiểu nhi
"lỗi giờ sinh lìa mẹ lìa cha". Nhưng, nhà thơ đã khóc những đứa trẻ
chết yểu ấy như khóc những con người thực sự.Trái tim ông quặn thắt trước cuộc
sống quá tàn nhẫn đã cướp các em đi khi chưa được nhìn ánh mặt trời. Ông đã
thay lời những người mẹ, người cha mất con mà đau thương nấc nghẹn trong tiếng
khóc. Ông đang sống trong cõi sống mà dường như đã chìm hẳn vào cõi chết để tìm
đến chia sẻ với trăm ngàn oan hồn bạc mệnh:
"Sống đã
chịu một đời phiền não.
Chết lại chờ
hớp cháo lá đa."
Nguyễn Du đã mang theo khối tình đau ấy suốt
cuộc đời để mỗi lần cầm bút là một lần máu rỏ, để mỗi trang viết là mỗi trang
nước mắt. Biết bao lần nhà thơ đã xót xa:
"Đau đớn
thay phận đàn bà
Lời rằng bạc
mệnh cũng là lời chung."
Nổi bật trong các tác phẩm của Tố Như là
những phận đàn bà, là những thân phận người phụ nữ bất hạnh phải chịu nhiều đau
khổ trong xã hội. Tất cả họ, dù là ai đi chăng nữa, dù là người con gái tài hoa
bị cuộc đời vùi dập hay hạng người bị khinh rẻ nhất là những cô ca nhi, kỹ nữ,
là những cô gái lầu xanh, đều được nhà thơ yêu thương, đau xót. Không ít lần
nàng Kiều trong "Đoạn trường tân thanh" bị đánh đập, hành hạ cũng là
lúc mà trái tim nhà thơ tan nát:
Xót thay đào
lý một cành
Một phen mưa
gió tan tành một phen."
Nguyễn Du như hóa thân vào Kiều để cảm nhận
nỗi đau đớn ê chề của một tiểu thư khuê các phải chịu nỗi đau tan vỡ mối tình
đầu đẹp đẽ. Nàng rứt ruột trao đi kỉ vật, trao đi tình yêu. Dù cho lý trí cố
kìm nén cũng không thể nào ngăn cản được trái tim đang gào thét:
"Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang!
Thôi thôi
thiếp đã phụ chàng từ đây."
Kiều cất lên tiếng khóc than cho số phận mình
hay cũng chính cõi lòng nhà thơ đang rỉ máu:
"Khi sao
phong gấm rủ là
Giờ sao tan
tác như hoa giữa đường
Mặt sao dày
gió dạn sương
Thân sao bướm
chán ong chường bấy thân."
Nguyễn Du đang hỏi chính mình, hỏi người, hỏi
cả lịch sử những câu "sao…", "sao…" đau đến buốt giá, nhức
nhối. Nhà thơ đang thay lời Kiều hỏi cho chính đời mình với chuỗi những bi kịch
nối tiếp nhau. Không ít lần nàng cố ngoi lên, cố thoát khỏi vũng bùn đen tối để
được sống thì lại bị đẩy xuống sâu hơn nữa…
Nguyễn Du đau cho đời nàng, trái tim quặn
thắt trước cuộc đời nàng phải rơi vào bất hạnh, vào cảnh ô nhục "thanh lâu
hai lượt thanh y hai lần". Biết bao lần cõi lòng tan nát nhưng vẫn hết mực
trân trọng:
"Khi tỉnh
rượu lúc tàn canh
Giật mình mình
lại thương mình xót xa."
Sống trong cảnh bùn lầy nhơ nhớp nhưng tâm
hồn Kiều phải sáng trong tựa ngọc. Nguyễn Du đã dành cho nàng một tình yêu nồng
cháy với biết bao đề cao, ngợi ca:
"Một hai
nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi
một tài đành họa hai."
Dưới ngòi bút của thi hào, Kiều hiện lên là
một trang tuyệt thế giai nhân "nghiêng nước nghiêng thành" với đủ tài
cầm kỳ thi họa cùng tấm lòng hiếu nghĩa đủ đường và khao khát về một tình yêu
tự do, chân chính:
"Nhớ ơn
chín chữ cao sâu
Một ngày một
ngả bóng dâu tà tà."
"Nàng
rằng: khoảng vắng đêm trường
Vì hoa nên
phải trổ đường tìm hoa."
Kiều đẹp, Kiều tài, tình như thế nhưng rốt
cuộc, nàng cũng chỉ là một kiếp má đào bạc mệnh. Tố Như thương nàng, ngợi ca
nàng đồng thời cũng căm tức:
"Chém cha
cái kiếp má đào.
Gỡ ra rồi lại
buộc vào như chơi."
Dường như trong xã hội xưa "trời xanh
quen thói má hồng đánh ghen." Nguyễn Du viết với tất cả căm phẫn dồn nén
từ bấy lâu nay hướng về chế độ xã hội phong kiến đầy bất công, ngang trái. Chế
độ ấy với sự ngự trị của thế lực đồng tiền, của những kẻ tàn ác tham lam, của
những tư tưởng bảo thủ "trọng nam khinh nữ", "phận gái chữ
tòng" đã ngang nhiên chà đạp, áp bức lên quyền sống, quyền hạnh phúc của
người phụ nữ. Không chỉ mình những phận đàn bà bạc mệnh mà đó cũng là lời chung
cho tất cả những con người nhỏ bé, không tiền tài, không quyền lực, phái chịu
đè nén dưới những chế độ hà khắc, ngang trái, vô lý:
"Phong
vận kì oan ngã tự cư."
(Ta tự coi như
người cùng hội với kẻ mắc nỗi oan lạ lùng vì nết phong nhã.)
Từ những cảm thương cho bi kịch nàng Tiểu
Thanh, Nguyễn Du bắc nhịp cầu giao cảm để tự thấy mình là người cùng hội cùng
thuyền với những phận tài hoa bất hạnh. Từ nỗi thương người, từ tiếng khóc
thương đời, Nguyễn Du cất lên tiếng khóc thương mình. Thương người gắn liền với
thương mình, chủ nghĩa nhân đạo đã thấm nhuần và đạt đến đỉnh cao trong trang
thơ của đại thi hào. Không một tác phẩm và tác giả cùng thời kỳ thậm chí đến
tận bây giờ lại có thể viết và viết về nỗi đau người gắn với nỗi thương mình
sâu sắc đến thế. Chỉ có thể là Nguyễn Du, là một nhà nhân đạo vĩ đại mới nhận
ra giá trị của bản thân, mới đau nỗi đau của chính mình khi tài năng, nhân
phẩm, giá trị bị vùi dập.
Trái tim nhân đạo sâu sắc gửi gắm trong những
hình thức nghệ thuật độc đáo đã mang đến thành công cho tác phẩm và tên tuổi
Nguyễn Du trong lòng dân tộc. Bởi thế, nhận định "nghệ thuật chỉ làm nên
câu thơ, trái tim mới làm nên thi sĩ" là lời đề cao bản chất của văn
chương và yêu cầu đối với một tác phẩm có tầm vóc.
Một tác phẩm thực sự có giá trị phải là sự
kết hợp hài hòa giữa nội dung và hình thức, giữa nghệ thuật và trái tim. Nhà
thơ phải có một trái tim đa cảm, tinh nhạy, phải biết yêu thương con người,
biết đấu tranh với cái xấu, cái ác đồng thời phải gắn bó với cuộc đời "thơ
chỉ bật ra trong tim khi cuộc sống đã thật đầy". Một nhà thơ chân chính
phải ngày ngày lao động nghệ thuật hăng say, bền bỉ nghiêm túc và sáng tạo, cần
cù như những con ong bay xa đem về hương phấn tái tạo tài tình để phấn hoa trở
thành mật ngọt. Nguyễn Du là một người như thế. Mỗi câu thơ đều được viết bằng
một ngòi bút thiên tài và một trái tim nhân đạo vĩ đại nên thơ văn của ông có
sức sống lâu bền trong lịch sử văn học dân tộc, trong tâm hồn mỗi người Việt
Nam.
Thơ ca là nơi neo đậu của tâm hồn, là điểm
tựa của cảm xúc, là nơi để người nghệ sĩ trải lòng kí thác tâm sự, giải phóng
những cung bậc cảm xúc mạnh mẽ nhất và là nơi để những tài năng thực sự được
thỏa sức bay bổng. Cho nên, "Thế giới được tạo lập không phải một lần mà
mỗi lần người nghệ sĩ độc đáo xuất hiện thì lại một lần thế giới được tạo lập"
(M.Proust). Đến với thế giới ấy, tâm hồn con người trở nên phong phú, tốt đẹp,
thanh lọc và cao thượng hơn, trong sáng hơn. Thiếu thế giới của văn nghệ,
"không gì có thể trở thành chính nó".