MỖI CLICK VÀO QUẢNG CÁO SẼ GIÚP CHÚNG TÔI PHỤC VỤ CÁC BẠN TỐT HƠN

Bằng những hiểu biết về Chuyện người con gái Nam Xương, hãy làm sáng tỏ ý kiến: "Vũ Nương không chỉ là hiện thân của vẻ đẹp mà còn là hiện thân của số phận bị kịch"


Đề bài: Nhận xét về của nhân vật Vũ Nương trong “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ có ý kiến cho rằng: “Vũ Nương không chỉ là hiện thân của vẻ đẹp mà còn là hiện thân của số phận bị kịch”. Bằng hiểu biết về văn bản “Chuyện người con gái Nam Xương”, em hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.

Bài làm
Nguyễn Dữ là gương mặt nổi bật của văn học Việt Nam thế kỉ XVI. Ông là một người học rộng, tài cao và đặc biệt qua tâm tới tầng lớp trí thức và người phụ nữ có nhân cách và phẩm hạnh. “Chuyện người con gái Nam Xương”, truyện thứ 16 trong “Truyền kì mạn lục” là một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông. Vũ Nương - nhân vật chính của truyện là một trong số những phụ nữ được nhà văn dành nhiều tâm huyết xây dựng với hình tượng tiêu biểu cho người phụ nữ Việt Nam truyền thống có đủ tứ đức: Công - dung - ngôn - hạnh nhưng lại có cuộc đời bi thảm. Đúng như nhận định: "Vũ Nương không chỉ hiện thân của vẻ đẹp mà còn là hiện thân của số phận bi kịch.”
Vũ Nương không chỉ là hiện thân của vẻ đẹp mà còn là hiện thân của bi kịch
Với tập truyện “Truyền kì mạn lục”, Nguyễn Dữ thực sự đã mang đến cho nền văn học dân tộc một “Thiên cổ kì bút” có khả năng lay động lòng người bởi giá trị mọi mặt của nó. “Chuyện người con gái Nam Xương” là thiên thứ 16 và là thiên tiêu biểu trong tập truyện này. Qua câu chuyện về cuộc đời và cái chết thương tâm của Vũ Nương, truyện thể hiện niềm cảm thương đối với số phận oan nghiệt của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến, đồng thời khẳng định vẻ đẹp truyền thống của họ. Tác phẩm là một áng văn hay, thành công về nghệ thuật dựng truyên, miêu tả nhân vật, kết hợp tự sự với trữ tình.
Trước hết, Vũ Nương là hiện thân của vẻ đẹp. Sau khi giới thiệu vẻ đẹp ngoại hình của nàng, tác giả đi sâu miêu tả vẻ đẹp tâm hồn, phẩm chất của nhân vật. Vũ Nương được miêu tả đẹp ở ngoại hình. Mở đầu truyện, tác giả đã có lời giới thiệu bao quát về Vũ Nương “Tính đã thuỳ mị nết na lại thêm tư dung tốt đẹp” tạo ấn tượng về một chân dung phụ nữ hoàn hảo, vẹn toàn. Trương Sinh vì cảm mến dung hạnh ấy mà xin mẹ trăm lạng vàng cưới nàng về làm vợ.
Để khắc họa nhân vật Vũ Nương với vẻ đẹp phẩm chất đáng quý, nhà văn đã đặt nhân vật vào những mối quan hệ, trong các tình huống khác nhau. Ở bất cứ tình huống và mối quan hệ nào, Vũ Nương cũng sáng lên vẻ đẹp của một người phụ nữ Việt Nam tuyền thống: đảm đang và giàu tình yêu thương.
Với chồng, Vũ Nương là người vợ nết na, phụ nữ thuỷ chung. Khi mới lấy chồng, biết chồng có tính đa nghi nên Vũ Nương cư xử đúng mực, giữ gìn khuôn phép, vợ chồng chưa từng xảy ra bất hòa. Nàng luôn giữ cho tình cảm gia đình đầm ấm, yên vui. Nàng là một người vợ hiền thục, khôn khéo, nết na đúng mực! Hạnh phúc êm ấm tưởng bền lâu, không ngờ đất nước xảy ra binh biến, Trương Sinh phải đầu quân ra trận ở biên ải xa xôi. Buổi tiễn chồng đi lính, Vũ Nương rót chén rượu đầy, dặn dò chồng những lời tình nghĩa, ngọt ngào, nồng đượm, đằm thắm, thiết tha: “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”. Đó là một lời dặn dò thật chân thành với ước muốn rất đỗi bình thường của một người vợ, người phụ nữ khao khát cuộc sống gia đình bình yên hạnh phúc. Ước mong cùng với lời lẽ dịu dàng ấy, chứng tỏ nàng luôn coi trọng hạnh phúc gia đình mà xem thường mọi công danh, bổng lộc. Tình thương chồng của nàng còn được thể hiện qua nỗi thấu hiểu những khó khăn nơi chiến trận. Nàng cảm thông trước những nỗi vất vả gian lao mà chồng sẽ phải chịu đựng: “Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì, khiến cho tiện thiếp băn khoăn, mẹ già lo lắng.”. Cùng với nỗi thấu hiểu của nàng là nỗi khắc khoải nhớ chồng của mình: “Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình, thương người đất thú! Dù có thư tín nghìn hàng, cũng sợ không có cánh hồng bay bổng”. Đúng là lời nói, cách nói của một người vợ hết mực thùy mị, dịu dàng. Trái tim ấy giàu lòng yêu thương, biết chịu đựng những thử thách, biết đợi chờ để yên lòng người đi xa, thật đáng trân trọng biết bao! Khi xa chồng, Vũ Nương ngày ngày đợi chờ, ngóng trông đến thổn thức “Giữ trọn tấm lòng thủy chung, son sắt”, “tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liêu tường hoa chưa hề bén gót”. Nỗi nhớ thương dài theo năm tháng “Mỗi khi thấy bướm lượn đây vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được”.
Nàng vừa thương chồng, vừa nhớ chồng, vừa thương xót cho chính mình đêm ngày phải đối mặt với nỗi cô đơn vò võ. Tâm trạng nhớ thương đau buồn ấy của Vũ Nương cũng là tâm trạng chung của những người chinh phụ trong mọi thời loạn lạc xưa nay:
"... Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong..."
(Chinh phụ ngâm)
Để thể hiện tâm trạng ấy, Nguyễn Dữ vừa cảm thông với nỗi đau khổ của Vũ Nương, vừa ca ngợi tấm lòng thủy chung, thương nhớ đợi chờ chồng của nàng.
Khi chồng trở về những tưởng nàng sẽ được sống hạnh phúc thì thật trớ trêu, nàng bị chồng nghi oan, hạnh phúc gia đình có nguy cơ tan vỡ. Vũ Nương ra sức cứu vãn, hàn gắn. Khi người chồng trút cơn ghen bóng gió lên đầu, Vũ Nương đã ra sức thanh minh, phân trần. Nàng nói đến thân phận mình, đến tình nghĩa vợ chồng và khẳng định tấm lòng thuỷ chung, son sắt của mình để thuyết phục chồng “Thiếp vốn con kẻ khó được nương tựa nhà giàu. Sum họp chưa thoả tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh. Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết”. Những lời nói nhún nhường tha thiết đó cho thấy thái độ trân trọng chồng, trân trọng gia đình nhà chồng, niềm tha thiết gìn giữ gia đình nhất mực của Vũ Nương.
Đến khi được sống dưới thủy cung, Vũ Nương vẫn không nguôi nhớ cuộc sống nơi trần thế - cuộc sống nghiệt ngã đã đẩy nàng tới cái chết. Nàng vẫn là người vợ yêu chồng, người mẹ thương con, vẫn nặng lòng nỗi nhớ nhung quê hương, mộ phần cha mẹ. Đồng thời nàng vẫn khao khát được trả lại danh dự.
Với mẹ chồng Vũ Nương còn là người con dâu hiếu thảo. Chồng vừa ra trận được một tuần thì nàng ở nhà sinh con trai. Trong những ngày tháng xa chồng, nàng đảm đang lo toan mọi công việc trong gia đình vừa chăm sóc phụng dưỡng mẹ chồng, lại nuôi dạy con thơ. Chồng xa nhà, nàng đã thay chồng phụng dưỡng mẹ chu đáo. Khi bà ốm nàng đã thuốc thang lễ bái thần phật và lấy những lời khôn khéo khuyên lơn mong vơi bớt nỗi nhớ thương con. Đến khi bà mất, nàng đã hết lời thương xót, ma chay tế' lễ cẩn trọng như với cha mẹ đẻ của mình. Lời trăng trối của người mẹ già ấy đã đánh giá được công lao của nàng đối với gia đình: “Sau này, trời xét lòng lành, ban cho phúc đức giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ lòng con như con đã chẳng phụ mẹ".
Với con, Vũ Nương là một người mẹ hiền yêu thương con hết mực. Nàng chăm sóc, bù đắp cho đứa con trai nhỏ thiếu vắng tình cha. Nàng vừa đảm đương vai trò của mẹ lại vừa đảm dương vai trò người cha đối với con. Đặc biệt, chi tiết nàng chỉ bóng mình trên vách và bảo đó là cha Đản với mục đích để con trai bớt đi cảm giác thiếu vắng tình cảm của người cha.
Bên cạnh đó, Vũ Nương còn là một người trọng nhân phẩm và tình nghĩa. Khi không phân giải được, nàng chọn cái chết để tự minh oan. Với nàng, nhân phẩm còn quan trọng hơn mạng sống. Sau khi trở về thủy cung vẫn khao khát được trả lại danh dự nên nàng đã nhờ Phan Lang nói vớí Trương Sinh lập đàn giải oan. Nàng sống trọng tình nghĩa, ở dưới Thủy cung, vẫn thương nhớ quê hương, gia đình: Ngựa Hồ gầm giá Bắc, chim Việt đậu cành Nam. Vì cảm ân đức của Linh Phi nên quyết ở lại Thủy cung, không trở về trần gian.
Vũ Nương không chỉ là một người trọng nhân phẩm và tình nghĩa mà nàng còn là một người phụ nữ giàu lòng vị tha. Khi bị vu oan, không nói một lời trách móc chồng. Khi sống dưới thủy cung, nàng sẵn sàng tha thứ cho chồng nên nàng mới nhắn Trương Sinh lập đàn giải oan. Việc lập đàn giải oan cho vợ sẽ phần nào giúp Trương Sinh vơi đi nỗi ân hận, day dứt. Khi được chồng lập đàn giải oan ở bến Hoàng Giang, nàng hiện về cất lời cảm tạ chồng có nghĩa là nàng đã hoàn toàn tha thứ cho chồng.
Nhà văn Nguyễn Dữ đã dành cho nhân vật một thái độ yêu mến, trân trọng qua từng trang truyện, từ đó khắc họa thành công hình tượng người phụ nữ với đầy đủ phẩm chất tốt đẹp. Vũ Nương trở thành hiện thân cho vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam thời phong kiến.
Lẽ ra, với một người phụ nữ đẹp người đẹp nết như Vũ Nương thì nàng sẽ được hưởng một cuộc sống hạnh phúc bên gia đình. Nhưng trong truyện nhà văn lại để cho nhân vật của mình là hiện thân của số phận bi kịch. Cuộc hôn nhân gặp nhiều trắc trở: hôn nhân ko môn đănh hộ đối, không bình đẳng và là cuộc hôn nhân sắp đặt, không có tình yêu. Trương Sinh ít học lại có tính đa nghi, hay ghen tuông vô cớ nên nàng luôn phải giữ gìn khuôn phép, lựa chồng để ko xảy ra bất hòa. Hạnh phúc chưa được bao lâu, đất nước xảy ra binh biến, nàng phải chịu cảnh xa chồng, bụng mang dạ chửa, thay chồng gánh vác, lo toan mọi việc trong gia đình. Đỉnh cao của bi kịch là ngày xum họp gia đình lại là ngày chia ly: mặc dù là người phụ nữ rất mực đoan chính lại bị chính chồng mình khép vào tội không chung thủy, thất tiết khi chồng vắng nhà. Bị chồng ruồng rẫy, mắng nhiếc, đánh đuổi nàng phải kết thúc cuộc đời bằng một cái chết thể thảm. Bi kịch lớn nhất với Vũ Nương là không có quyền hành: không có quyền minh oan, không có quyền được bảo vệ nhân phẩm, không có quyền được sống bởi lẽ xã hội phong kiến bất công, trọng nam khinh nữ đã tước đi của người phụ nữ những điều đó.
Nguyên nhân trực tiếp đẩy Vũ Nương đến cái chết thê thảm như vậy là bởi vì lời nói ngây thơ của bé Đản: Ô hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói chứ không như cha tôi trước đây chỉ nín thin thít. Nguyên nhân gián tiếp phải kể đến là do cuộc hôn nhân bất bình đẳng dẫn đến thái độ rẻ rúng của Trương Sinh đối với Vũ Nương. Cái thua thiệt đầu tiên làm nên bất hạnh của Vũ Nương là thua thiệt về vị thế.
Vũ Nương “vốn con kẻ khó” còn Trương Sinh lại là “nhà giàu" đến độ khi muốn Sinh có thể xin mẹ trăm lạng vàng để cưới Vũ Nương về. Sự cách biệt giàu nghèo ấy khiến Vũ Nương sinh mặc cảm và cũng là cái thế khiến Trương Sinh có thể đối xử thô bạo, gia trưởng với nàng. Lí do tiếp theo phải kể đến là do bản tính hồ đồ ghen tuông lại hẹp hòi, tàn nhẫn của người chồng đa nghi, vũ phu. Người chồng không đủ tỉnh táo để phân tích đúng sai mà cố vin theo lời nói ngây thơ, vô tình của con để hăt hủi, ruồng rẫy vợ cho hả dạ. Và lý do quan trọng chính là Vũ Nương là nạn nhân của chiến tranh phi nghĩa. Nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm không chỉ là nạn nhân của chế độ phụ quyền phong kiến mà còn là nạn nhân của chiến tranh phong kiến, của cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn. Nàng lấy Trương Sinh, cuộc sống hạnh phúc,cuộc sống vợ chồng kéo dài chưa được bao lâu thì chàng phải đi lính. Vũ Nương suốt ba năm ròng phải gánh vác trọng trách gia đình, phụng dưỡng mẹ già, chăm sóc con thơ, phải sống trong nỗi nhớ chồng, thiếu vắng tình yêu thương của chồng. Và cũng chính chiến tranh đã làm xa cách, tạo điều kiện cho sự hiểu lầm trở thành nguyên nhân gây bất hạnh. Hoàn cảnh gia đình li tán, xa cách đã khiến cho thử thách niềm tin vốn đã mong manh của Trương Sinh đối với người vợ ngoan hiền của mình. Đó cũng là ngòi nổ cho thói hay ghen, đa nghi của Trương Sinh nảy nở, phát triển, dẫn đến cái chết oan uổng của Vũ Nương.
Nàng là nạn nhân của xã hội phong kiến - chế độ nam quyền - xã hội mà hôn nhân không có tình yêu và tự do. Chính xã hội ấy đã dung túng cho thói gia trưởng của đàn ông, phá tan hạnh phúc của người phụ nữ.
Nhà văn đã bày tỏ tấm lòng cảm thông, thương xót cho số phận bi kịch của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Ca ngợi nhân phẩm, đức hạnh của họ, nêu cao ước mơ, khát vọng công bằng, công lý, khát vọng hạnh phúc chân chính, bình dị. Phê phán xã hội nam quyền bất công.
Như vậy, nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm đúng là hình ảnh điển hình cho vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam cũng là hiện thân của số phận khổ đau bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Tác giả Nguyễn Dữ đã dành cho nhân vật của mìnv một thái độ yêu mến, trân trọng qua từng trang truyện, từ đó khắc họa thành công hình tượng người phụ nữ với đầy đủ phẩm chất tốt đẹp
Mới hơn Cũ hơn

Liên kết

Quảng cáo