Tình
yêu thương, lòng biết ơn và ký ức tuổi thơ luôn là hành trang quý giá nâng bước
chân ta vào đời. Ai cũng có thể cảm nhận được niềm hạnh phúc trong vòng tay che
chở của mẹ, sự ấm áp của tình cha. Nhưng, cuộc sống của chúng ta sẽ trọn vẹn và
giàu ý nghĩa hơn nếu tuổi thơ chúng ta có một người bà để yêu quý bà và được bà
yêu quý. Bắt nguồn từ cảm xúc ấy, bài thơ Bếp lửa được sáng tác, khi nhà thơ Bằng
Việt còn là sinh viên đang du học tại Liên Xô. Bài thơ là nỗi nhớ nhung về người
bà yêu quý với những kỷ niệm trong sáng của tuổi thơ.
Cảm nhận bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt |
Có
lẽ vào một buổi sáng tinh mơ se lạnh nơi xứ lạ, người cháu chợt nhìn thấy
đâu
đó bếp lửa nhà ai hửng lên trong làn sương sớm, hay đây là một hình ảnh thức dậy
trong tâm trí nhà thơ:
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Hai
câu thơ, hình ảnh bếp lửa lặp đi lặp lại hai lần, giọng thơ thiết tha, sâu lắng!
Hình ảnh đó chắc quen thuộc lắm, cháu từng gắn bó với nó lắm, nhưng đã xa, lâu
rồi không nhìn thấy nên bây giờ gặp lại mới bâng khuâng, xúc động đến thế!
Cháu thương bà biết mấy nắng
mưa.
Thì
ra bếp lửa gợi lên hình ảnh thân thương. Cuộc đời bà gắn liền với bếp lửa thân
quen. Đây là cách nói hoán dụ: Nói đến bếp lửa là liên tưởng đến bà, và ngược lại.
Vậy là trong tuổi thơ của cháu, hình ảnh bà hằng ngày cặm cụi nhóm bếp thổi cơm
đã khắc sâu trong tâm trí. Hình ảnh bếp lửa còn mang sắc thái ẩn dụ. Từ láy chờn
vờn tả thực ngọn lửa nhỏ, run rẩy trong gió sớm, gợi nhớ vóc dáng gầy guộc,
mong manh của bà. Những tính từ ấp iu, nồng đượm khiến người đọc có thể hình
dung sắc đỏ nồng nàn của ngọn lửa nhưng không gợi cảm giác thiêu đốt mà đem đến
cảm giác dịu dàng, thư thái như sưởi ấm giữa mùa đông. Có phải đó là tấm lòng
yêu thương của bà luôn ấp ủ, chắt chiu cho con cháu?
Cụm
từ biết mấy nắng mưa đã gợi ra phần nào cuộc đời vất vả lo toan của bà. Chỉ với
3 câu thơ, ta thấy trong nỗi nhớ nhung hiện lên chân dung một người bà bình dị
và nhân hậu biết bao!
Nỗi
nhớ khơi nguồn cho những dòng hồi tưởng, mở ra một loạt ký ức yêu thương về một
thời thơ ấu:
Lên bốn tuổi cháu đã quen
mùi khói
Bốn
tuổi là lứa tuổi còn chưa đi mẫu giáo, nhưng trong trí khôn non nớt mới hình
thành, cháu đã có bà trong tâm trí. Mùi khói vừa tả thực vừa mang ý nghĩa ẩn dụ.
Đó là mùi khói bếp cay cay, hay đó là hơi hướng thân thuộc của bà?
Chao
ôi, tuổi thơ của cháu thật nhiều ý nghĩa vì được sống bên bà, dù tuổi thơ ấy có
bóng đen ghê rợn của nạn đói 1945. Nhưng câu thơ đầy ám ảnh:
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy
Cụm
từ đói mòn đói mỏi không chỉ khắc sâu cảnh gian khổ, thiếu thốn, nhọc nhằn mà
còn nhấn mạnh sự chịu đựng bền bỉ của con người. Hình dạng chú ngựa khô rạc còm
cõi, tội nghiệp, dễ khiến ta hình dung đến vẻ hốc hác, trầm lặng, khắc khổ của
người đánh xe. Hình ảnh chú ngựa gầy giơ xương đã nói lên tất cả. Sức ngựa đã
mòn, hẳn sinh lực con người cũng rất tệ.
Cháu
nhớ hết, nhưng tại sao lại chỉ nhớ khói:
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!
Sức
trai tráng của bố dường như cạn kiệt, huống chi bà già yếu, mong manh? Có lẽ bà
tiều tụy nhiều lắm, thương lắm, chịu đựng lắm! Tác giả không kể ra những nhọc
nhằn, kham khổ. Chỉ biết ký ức ấy không bao giờ phai nhạt, đến nỗi nghĩ lại còn
đau xót ngậm ngùi. Có thể hình dung trong gia đình ba thế hệ ấy, bà là người
mong manh nhất nhưng mạnh mẽ nhất, quan trọng nhất. Dường như bà không gục ngã,
thì con cháu cũng không thể gục ngã. Bà của cháu nhẫn nại, kiên cường biết
bao!
Dấu
ấn sâu sắc nhất là những nă7m tháng bố mẹ công tác xa, hai bà cháu âm thầm đùm
bọc, cưu mang nhau:
Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà?
Tiếng
chim tu hú từ xa xăm vẳng lại có thể nghe thấy được, chứng tỏ âm thanh đó đã
bay qua những không gian mênh mông, vắng lặng. Âm thanh ấy không làm cho cảnh vật
vui lên mà càng gợi lên cảm giác vắng vẻ, quạnh hiu. Tác giả như tách khỏi dòng
hồi tưởng, như đang trò chuyện cùng bà: Bà còn nhớ không bà? Bởi chỉ có hai bà
cháu mới hiểu hết ý nghĩa của âm thanh ấy. Tiếng chim tu hú phải da diết, khắc
khoải lắm, nên cháu khó quên và bồi hồi xúc động khi nhớ lại. Có lẽ khi tiếng
chim tu hú từ xa vọng lại, hai bà cháu mới cảm nhận rõ rệt nhất sự thiếu vắng
trong ngôi nhà của mình. Đứa trẻ nào không khao khát tiếng nói của cha, hơi ấm
của mẹ? Người bà nào chẳng ước mong tuổi già có con cháu quây quần bên cạnh? Vì
hoàn cảnh chiến đấu, bố mẹ công tác xa không về, bà nuôi cháu trong trống vắng,
quạnh hiu.
Những
lúc tiếng chim kêu khắc khoải như vậy, bà thương cháu nên hay kể chuyện để vỗ về
cháu và có lẽ để chính mình khuây khỏa. Những năm tháng ấy, bà thực vừa là bà,
vừa là mẹ, là cha của cháu:
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học
Hàng
loạt động từ được liệt kê: bà bảo, bà dạy, bà chăm. Cháu được dạy dỗ, chăm chút
trong tình yêu thương của bà. Con đi xa, bao nhiêu yêu thương bà dành hết cho đứa
cháu nhỏ. Cháu cũng cảm nhận được tình yêu thương đó và thấu hiểu nỗi vất vả của
bà. Trong trai tim ngây thơ, cháu thầm trách chim tu hú sao chẳng đến ở cùng bà
cho vui nhà vui cửa, cho bà vợi bớt nhớ mong. Điệp từ bà, cháu lặp đi lặp lại,
góp phần diễn tả cảnh bà cháu quấn quýt không rời. Dù thiếu vắng sự chăm sóc của
mẹ cha nhưng tình yêu thương của bà đã bù đắp tất cả. Cháu thật diễm phúc khi
có một người bà như thế!
Kỷ
niệm về bà không chỉ là những ngày tháng dẫu gian nan nhưng êm đềm vì có bà bên
cạnh. Cũng có lúc đau buồn đến tuyệt vọng:
Năm giặc đốt làng cháy
tàn, cháy rụi.
Ai
đã từng chứng kiến sự tàn phá của chiến tranh, cảnh ngôi nhà thân yêu đổ nát
tan hoang, mới cảm nhận được nghị lực phi thường trong lời nói bình thản, giản
dị của bà:
“Bố ở chiến khu bố còn việc bố
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”
Không
một giọt nước mắt, bà giấu nỗi đau thương để luyện cho cháu một tình cảm cao
hơn. Hình ảnh người bà đã vượt ra khỏi tình cảm bà cháu thông thường, mà vươn đến
một tình cảm rộng lớn hơn: Lặng lẽ hi sinh, chia sẻ với chiến trường! Những năm chiến tranh ròng rã ấy, bà âm thầm
nhóm lửa, giữ lửa:
Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng.
Bà
cùng cháu nhóm lửa, giữ lửa để sống, để chờ đợi ngày chiến thắng, ngày sum họp.
Đến đây, bếp lửa cụ thể đã biến thành ngọn lửa trừu tượng. Đó là ngọn lửa trong
lòng bà, ngọn lửa của sức sống, của niềm tin! Như ngọn lửa, tấm lòng của bà, đức
hi sinh tần tảo của bà đã truyền cho cháu ý chí và nghị lực phi thường.
Mấy
chục năm rồi, ngọn lửa ấy vẫn tỏa hơi ấm từ đôi tay chắt chiu, chịu thương chịu
khó của bà:
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu, nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt
bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Từ
vẫn khẳng định sự bền bỉ sắt son. Bà vẫn thế, trước sau như một, giàu đức hi
sinh, lòng thương yêu ấp iu, nồng đượm. Những điểm sáng của khổ thơ này lại là
tình cảm chan hòa với cuộc đời, với mọi người. Từ củ khoai, nồi xôi gạo mới bà
nấu, bà dạy cháu biết sẻ chia, biết sống yêu thương, có thủy có chung, có tình
làng nghĩa xóm. Có lẽ bà cũng không hề hay biết, bà là người đã Nhóm dậy cả những
tâm tình tuổi nhỏ của đứa cháu cưng! Là điều gì vô cùng thiêng liêng và kỳ diệu
trong cuộc đời cháu:
Ôi kì lạ và thiêng liêng
- bếp lửa!
Điệp
từ nhóm lặp đi lặp lại ở đầu mỗi câu thơ, tạo âm điệu mỗi lúc một mạnh hơn, tha
thiết hơn. Khẳng định một suy gẫm giản đơn mà sâu sắc: Những gì thân thiết với
tuổi thơ đều có sức tỏa sáng, nâng đỡ con người trong suốt hành trình dài rộng
của cuộc đời! Bà là người truyền lửa, truyền cho cháu tình yêu thương và những
phẩm chất tốt đẹp. Có một người bà như thế, đứa cháu nào chẳng ngoan ngoãn, nên
người!
Vậy
đó, hình ảnh bếp lửa còn mãi tỏa sáng trong tâm hồn đứa cháu xa nhà:
Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm
tàu
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng lúc nào
quên nhắc nhở:
Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?
Bằng
cách nói hoán dụ, những hình ảnh ngọn khói, con tàu, ngọn lửa, ngôi nhà… kết hợp
với điệp từ trăm, diễn tả cảnh xa hoa, hiện đại nơi xứ người. Cháu đã lớn khôn,
được đi đây đi đó, tầm mắt được mở rộng, được thấy nhiều thứ, có nhiều niềm vui
mới mẻ. Nhưng không lúc nào cháu quên nguồn cội: Sớm mai này bà nhóm bếp lên
chưa?
Bài
thơ sáng tác khi tác giả đang học ở Liên Xô, nơi có nhiều bếp ga, bếp điện.
Nhưng người cháu không quên bếp lửa quê nhà. Nhớ đến bếp lửa là nhớ đến bà. Nhớ
đến bà là nhớ đến quê hương, nguồn cội. Nhớ quê hương nơi xứ lạ, đó chính là
tình yêu Tổ Quốc!
Có
thể nói, trong bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt, bà là Tổ Quốc, bà là Quê hương!
Tình yêu thương và lòng biết ơn bà chính là biểu hiện sâu sắc của lòng yêu
thương, gắn bó với gia đình, quê hương. Cũng là khởi đầu của tình yêu đất nước,
con người.