MỖI CLICK VÀO QUẢNG CÁO SẼ GIÚP CHÚNG TÔI PHỤC VỤ CÁC BẠN TỐT HƠN

Phân tích bài thơ Đồng chí của Chính Hữu


Đề bài: Suy nghĩ của em về tình đồng chí, đồng đội của người lính cách mạng thời kỳ kháng chiến chống Pháp qua bài thơ Đồng chí của Chính Hữu.
Bài làm
Đất nước ta phải trải qua rất nhiều cuộc kháng chiến chống quân xâm lược. Trong những cuộc kháng chiến ấy, hình tượng người nông dân mặc áo lính đã đi vào thơ ca như một hình ảnh thiêng liêng, cao đẹp. Mùa xuân năm 1948, vào thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, nhà thơ Chính Hữu đã cho ra đời tác phẩm mang tên "Đồng chí". Là một nhà thơ quân đội, tác giả hiểu rõ tình đồng đội cao quý của những người lính cách mạng có cùng lí tưởng để từ đó thể hiện tình đồng chí một cách chân thành và cảm động.
Phân tích bài thơ Đồng chí
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp là nơi mà biết bao thanh niên đã gia nhập quân đội, chiến đấu cho một lí tưởng chung là bảo vệ chủ quyền, độc lập, tự do của dân tộc. Trong cuộc sống gian khổ, vất vả ấy, có một thứ tình cảm mới mẻ đã nảy sinh và ngày càng trở nên sâu sắc đó là tình đồng chí. Cụm từ "đồng chí" tuy quen thuộc, bình dị nhưng đầy ý nghĩa. Bài thơ mở đầu bằng những câu thơ tự do đã tâi hiện sự hình thành và cơ sở của tình đồng chí:
"Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau
Súng bên súng, đầu sát bên đầu,
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Đồng chí! "
Bảy câu thơ đầu như một lời trao gửi tâm tình của hai người lính xa quê trong đêm rừng cùng nhau phục kích quân giặc. Tác giả đã diễn tả lời tâm sự ấy bằng những hình ảnh đẹp đẽ và ấm cúng. "Quê hương anh" và "Làng tôi" là cách gọi chứa đựng bao tình cảm gắn bó, thiết tha. Họ đến từ đâu? Họ làm nghề gì? Anh thì ở vùng đất ven biển "nước mặn đồng chua", cái thứ đất nhiễm phèn khó mà làm ăn. Khác với anh, "tôi" ở đồi núi, trung du, cái nơi đất bị đá ông hoá, khó mà canh tác. Thế nhưng giống với anh, "tôi" cũng là người nông dân, những con người có cuộc sống nghèo nàn, bình dị, khốn khổ. Tất cả mang nét tương đồng về cảnh ngộ xuất thân, sự đồng cảm giai cấp của những người lính cách mạng. Những người nông dân nghèo ấy nghe theo tiếng gọi của Tổ quốc, họ tạm xa con trâu, mảnh ruộng, mái nhà tranh để ra đi chiến đấu. "Anh với tôi đôi người xa lạ",ở đây tác giả nói đến từ đôi chứ không phải là hai. Dù mang nghĩa giống nhau nhưng nó đem lại một sắc thái, cảm xúc vô cùng ý nghĩa. "Đôi" là cái gì đó gắn kết, luôn bên nhau vad tách rời thì cả hai sẽ không tồn tại, vậy mà tôi ở đây lại xa lạ. Mặc dù không quen đấy, xa lạ đấy nhưng có một điều gì đó mách bảo họ rằng họ rất giống nhau. "Tự phương trời" chẳng "hẹn" mà đến, định mệnh sắp đặt cho họ lại gần nhau, những con người cùng cảnh ngộ mà còn chung lí trí, chung niềm tin và cả mục đích sống, sát cánh bên nhau chiến đấu.
"Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ".
"Súng bên súng" là cùng làm nhiệm vụ, một nhiệm vụ cao cả bảo vệ Tổ quốc, giữ chắc nòng súng vì đất nước, dân tộc, vì đồng chí. "Đầu sát bên đầu" tiểu đối ẩn dụ rất thực chỉ suy nghĩ và lí tưởng của những con người đang đứng gần bên nhau như một, họ cùng suy nghĩ, cùng hướng tới một niềm tin, vì vậy họ ở đây."Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ",tình đồng chí đã nảy nở từ những điều bình dị nhất, sự chia sẻ một cách chân chất và vụng về của những người lính nhưng chan chứa bên trong là cả một lòng yêu thương, quan tâm. Câu thơ đã được nhà thơ Chính Hữu sử dụng cách nói lặp, nghệ thuật đối để diễn tả sự quấn quýt, gắn bó, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau của những người lính trong chiến đấu. Ngày cùng chung nhiệm vụ chiến đấu, chia nhau gian khổ, hiểm nguy; đêm đắp chung một chiếc chăn đơn sơ, mộc mạc, họ đã trở thành đôi bạn tri kỉ. Chính tình cảm gắn bó keo sơn của những người lính đã biến họ từ chỗ là người xa lạ trở thành đôi tri kỉ. Tình đồng đội đã trở thành tình đồng chí thiêng liêng vô hạn. Đó là nền móng, là cơ sở vững chắc nhất hình thành nên tình đồng chí của những người lính cách mạng. Đúc kết ở dòng thơ thứ 7,chỉ với hai tiếng "Đồng chí! " cùng dấu chấm than, ngắn gọn nhưng vô cùng súc tích và đặc biệt, nó như một nốt nhấn, một lời khẳng định, thốt lên trong niềm sung sướng. Từ chỗ xa lạ đến quen nhau và giờ đây họ thành đồng chí của nhau, kề vai sát cánh chiến đấu để giải phỏng quê hương, đất nước. Đọc ba câu thơ tiếp theo:
"Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính"
Ta thấy được giữa bổn phận gia đình, trách nhiệm với người thân và sự nghiệp giải phóng dân tộc, người lính đã chọn con đường ra đi để đem lại ngày mai tươi sáng cho đất nước, quê hương. Họ đi vô cùng dứt khoát, không nuối tiếc, không đau khổ, không vấn vương, hết sức ngang tàng. Tuy vậy vốn là những con người tình cảm, họ không thể giấu đi nỗi nhớ nhất cũng như lặng thinh trước sự mong ngóng ở quê hương. Thế nhưng sức mạnh của tình yêu nước lớn lao đã giúp họ trở nên mạnh mẽ, hi sinh bản thân và những xúc ca để đến với lí tưởng cao đẹp. Những người lính có cùng chung một nỗi niềm tâm sự, họ san sẻ cho nhau những lo lắng, suy nghĩ, trăn trở của mình. Vì vậy họ càng gắn bó với nhau khắng khít:
"Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Nụ cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay. "
Trong kháng chiến, tuy gian khổ, đói rét, bệnh tật nhưng bằng tình đồng chí họ cùng giúp nhau vượt lên tất cả. Ai đã từng tham gia kháng chiến mới biết cái rất mướt của núi rừng và những trận sốt rét khi lạnh như hành hạ, thử sức chịu đựng của con người. Càng trải qua gian khó họ cadng biết trân trọng tình đồng chí. Cử chỉ đơn giản "tay nắm lấy bàn tay" thật xúc động, cái nắm tay để sẻ chia hơi ấm, sẻ chia cảm giác lạnh lẽo. Hình ảnh "miệng cười buốt giá" như hoàn thiện hơn bức chân dung về người chiến sĩ cách mạng. Nhà thơ đã tô đậm những thiếu thốn, khó khăn về vật chất để khẳng định sự giàu có và vẻ đẹp tuyệt vời trong tâm hồn người lính. Một cử chỉ nhẹ nhàng nhưng chân thành, cảm động, chứa chan yêu thương. Đó không phải cái bắt tay thông thường mà là cái bắt tay truyền sức sống, niềm tin để cổ vũ nhau. Tình đồng chí được Chính Hữu thể hiện là tình cảm giàu tính nhân văn, là vẻ đẹp của người chiến sĩ. Bằng hình ảnh chọn lọc, chi tiết, nhịp thơ sâu lắng và một cấu trúc độc đáo, tác giả đã khắc hoạ một tình đồng chí giữa những người lính bền chặt, gắn bó. Đỉnh cao của tình đồng chí" là hình ảnh được vẽ bằng bút pháp lãng mạn bay bổng ở những câu thơ cuối:
"Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo"
Trong đêm sương muối lạnh tê người, những người lính hiên ngang trong tư thế chờ đợi kẻ thù, sẵn sàng chiến đấu, họ im lặng đứng bên nhau. Họ sát cánh bên nhau, truyền cho nhau hơi ấm của tình đồng đội, xua tan đi cái lạnh lẽo, giá buốt của rừng đêm, tiếp thêm cho nhau sức mạnh để hoàn thành nhiệm vụ cao cả. Hình ảnh "đầu súng trăng treo" là một hình ảnh giàu giá trị biểu tượng. Đó là hình ảnh kết tinh giá trị thảm mĩ và tư tưởng nghệ thuật của tác phẩm. Đó cũng là hình ảnh khép lại bài thơ, in dấu trong lòng người đọc về tình đồng chí thiêng liêng cao cả.
Bài thơ là bức chân dung sống động về "anh bộ đội cụ Hồ" thời kháng chiến chống thực dân Pháp. Nhà thơ Chính Hữu đã khắc hoạ hình ảnh người chiến sĩ với tình đồng chí thiêng liêng, đáng trân trọng, tình cảm ấy đã tạo nên giá trị nhân văn và sức sống bền lâu cho bài thơ.
Nguồn: Sưu tầm
Mới hơn Cũ hơn

Liên kết

Quảng cáo