Theo định nghĩa trong Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học - Nhà xuất bản Đà Nẵng -1977 thì:
“Thành
ngữ là tập hợp từ cố định đã quen dùng mà nghĩa của nó thường không thể giải
thích được một cách đơn giản bằng nghĩa của các từ tạo nên nó”.
Ví dụ:
Một nắng hai
sương
Rán sành ra mỡ
Đâm ba chẻ củ
“Tục ngữ
là câu ngắn gọn, thường có vần điệu, đúc kết tri thức, kinh nghiệm sống và
đạo đức thực tiễn của nhân dân”.
Ví dụ:
Đói cho sạch,
rách cho thơm
Một giọt máu
đào hơn ao nuớc lã.
Thừa người nhà
mới ra người ngoài
Qua hai định
nghĩa trên, ta chưa thấy hết được sự khác nhau giữa thành ngữ và tục ngữ mà
phải phân tích thêm như sau:
1. Tục ngữ là một câu nói hoàn chỉnh, diễn đạt trọn vẹn một ý mang nội dung nhận xét quan hệ xã hội, truyền đạt kinh nghiệm sống, cho bài học luân lý hay phê phán sự việc. Do đó, một câu tục ngữ có thể được coi là một “tác phẩm văn học” hoàn chỉnh vì nó mang trong mình cả ba chức năng cơ bản của văn học là chức năng nhận thức, chức năng thẩm mỹ và chức năng giáo dục.
Ví dụ, câu tục
ngữ Việt Nam “Thuận vợ thuận chồng, tát bể Đông cũng cạn” diễn
đạt một nhận xét về sức mạnh đoàn kết, một kinh nghiệm sống và làm việc có hoà
hợp thì mới đem lại kết quả, một luân lý trong quan hệ vợ chồng.
- Chức
năng nhận thức trong câu tục ngữ này là giúp cho con người hiểu được
cơ sở của quan hệ vợ chồng là bình đẳng, dân chủ và thông cảm với nhau.
- Chức
năng giáo dục của nó là góp phần đưa tình cảm giữa người và người
theo hướng tốt đẹp trong quan hệ vợ chồng nói riêng và trong quan hệ xã
hội nói chung.
- Chức
năng thẩm mỹ của nó là để truyền tải nội dung nên người ta đã dùng cách nói
cường diệu và có hình ảnh khiến người đọc dễ bị thuyết phục và tiếp thu.
2. Thành ngữ là một cụm từ cố định đã quen dùng. Xét về
mặt ngữ pháp thì nó chưa thể là một câu hoàn chỉnh, vì thế nó chỉ tương đương
với một từ. Thành ngữ không nêu lên một nhận xét, một kinh nghiệm sống, một bài
học luân lý hay một sự phê phán nào cả nên nó thường mang chức năng
thẩm mỹ chứ không có chức năng nhận thức và chức năng giáo dục, mà
thiếu hai chức năng này thì nó không thể trở thành một tác phẩm văn học trọn
vẹn được. Cho nên, thành ngữ thuộc về ngôn ngữ.
Ví dụ trong
tiếng Việt, thành ngữ “mặt hoa da phấn” chỉ nói lên vẻ
đẹp yêu kiều của người phụ nữ, nhưng nó không nêu lên được một nhân xét, một
lời khuyên hay một sự phê phán nào cả. Vì thế, dù được diễn đạt một cách bóng
bảy, có hình ảnh (chức năng thẩm mỹ), thành ngữ trên không mang lại cho người
ta một hiểu biết về cuộc sống và một bài học nào vể quan hệ con người
trong xã hội (chức năng nhận thức và chức năng giáo dục).
3. Trong khoa học lô-gic, có hai hình thức tư duy mà đặc điểm và mối
quan hệ giữa chúng với nhau có thể được coi là những cơ sở nhận thức luận cho
việc xác định đặc điểm và mối quan hệ giữa tục ngữ và thành ngữ. Đó là các hình
thức khái niệm và phán đoán. Xét nội dung và cách diễn đạt của những câu mà ta
vẫn gọi là thành ngữ và tục ngữ thì thấy: nội dung của thành ngữ là
nội dung của những khái niệm, còn nội dung của tục ngữ là nội dung của những
phán đoán. Quan hệ giữa thành ngữ và tục ngữ phản ánh quan hệ giữa các
hình thức khái niệm và phán đoán. Chẳng hạn như khái niệm về “sự uổng
công” có được cũng phải trải qua một quá trình khái quát rất nhiều hiện tượng
như “nước đổ lá khoai”, “nước đổ đầu vịt”, “dã tràng xe cát”... Theo
cách miêu tả của các thành ngữ này thì đó là những hiện tượng riêng rẽ, được
nhận thức bằng những tri giác của giác quan. Sự nhận thức này nhằm mục đích
khẳng định một thuộc tính nhất định của những hiện tượng đó. Sự khẳng định ấy
được thể hiện ra thành những phán đoán, có thể diễn đạt như sau: “Nước đổ
đầu vịt thì nước lại trôi đi hết”, “Nước đổ lá khoai thì nước lại trôi đi
hết”, “Dã tràng xe cát biển Đông, nhọc lòng mà chẳng nên công cán
gì”...
Như vậy, sự
giống nhau giữa thành ngữ và tục ngữ là ở chỗ cả hai đều chứa đựng và phản ánh
tri thức của nhân dân về các sự vật và hiện tượng của thế giới khách quan. Sự
khác nhau là ở chỗ những tri thức ấy khi được rút lại thành những
khái niệm thì ta có thành ngữ, còn khi được trình bày, diễn giải thành những
phán đoán thì ta có tục ngữ.
Sự khác nhau về
chức năng của các hình thức tư duy trên đây thể hiện ra ở sự khác nhau về chức
năng của các hình thức ngôn ngữ dùng để hiện thực hoá chúng.
Hình thức ngôn
ngữ phù hợp với hình thức khái niệm có chức năng định đanh. Hình thức ngôn ngữ
phù hợp với hình thức phán đoán có chức năng thông báo. Thành ngữ diễn
đạt khái niệm nên thành ngữ có chức năng định danh, còn tục ngữ diễn tả các
phán đoán nên tục ngữ có chức năng thông báo. Trong ngôn ngữ, chức năng
định danh được thực hiện bài các từ ngữ, cho nên việc sáng tạo thành ngữ về
thục chất là một trong những hình thức sáng tạo từ ngữ để đáp ứng yêu cầu đặĩ
tên cho những sự vật, hiện tượng mới. Do đó, thành ngữ là một hiện
tượng thuộc lĩnh vực ngôn ngữ. Còn tục ngữ khi thực
hiện chức năng thông báo của nó thì có bản chất là một hoạt động nhận thức, nằm
trong lĩnh vực những hình thức hoạt động nhận thức khác nhau của con người như
khoa học, nghệ thuật, văn học... Qua sự phân tích trên đây, ta có thể
khẳng định sự khác nhau giữa thành ngữ và tục ngữ về cơ bản là sự khác nhau
giữa một hiện tượng ngôn ngữ với một hiện tượng ý thức xã hội. Do đó,
thành ngữ chủ yếu là đối tượng nghiên cứu của khoa học ngôn ngữ. Còn tục ngữ,
tuy có nhiều mặt đáng được khoa học ngôn ngữ chú ý, song về cơ bản cần được
nghiên cứu như là một hiện tượng ý thức xã hồi, một hiện tượng văn hoá, tinh
thần của nhân dân lao động.
Trên đây, tôi
đã phân biệt thành ngữ và tục ngữ qua bốn bình diện nghiên cứu khác nhau. Tôi
xin tóm tắt thành bảng tổng kết dưới đây để tiện so sánh đối chiếu:
Bình diện
nghiên cứu |
Thành ngữ |
Tục ngữ |
Kết cấu ngữ pháp |
- Cụm từ cố định tương đương với một từ |
- Câu hoàn chỉnh |
Chức năng văn học |
- Chức năng thẩm mỹ |
- Chức nâng thẩm mỹ - Chức năng nhận thức - Chức năng giáo dục |
Hình thức tư duylôgich |
- Diễn đạt khái niệm, khái quát những hiện tượng riêng rẽ. |
- Diễn đạt phán đoán, khẳng
định một thuộc tính của hiện tương |
Chức năng của các hình thức ngôn ngữ |
- Chức năng định danhthực
hiện bởi các từ ngữ. - Hiện tượng thuộc lĩnh vực ngôn ngữ. |
- Chức nãng thông báo thuộc
lĩnh vực hoạt đông nhận thức. - Hiện tượng ý thức xã hội, văn hóa,
tinh thần của nhân dân. |
Nguồn: Sưu tầm