Từ “Tản văn” được
dùng theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng, tản văn chỉ tất cả những
thể loại ngoài thơ ca, bao gồm tác phẩm văn học và luận văn khoa học, văn bản
hành chính công vụ. Theo nghĩa hẹp, tản văn được dùng với ý nghĩa văn học thuần
túy, là một thể loại văn học bên cạnh thơ ca, tiểu thuyết, kịch, thường gọi là
“tản văn văn học” hoặc “tản văn nghệ thuật”. Loại tản văn này là thể loại văn học
chú trọng việc ghi lại những gì đã trải qua, đã nghe thấy, cảm thấy, thể nghiệm
liên tưởng của cái tôi hoặc ghi lại những câu chuyện, những trạng thái cảnh vật
hoặc trữ tình hoài niệm; là loại tác phẩm văn học giàu tính trữ tình, rộng rãi
về đề tài, tinh túy về nội dung, khuôn khổ tương đối nhỏ, ngôn ngữ tự nhiên mới
mẻ, thủ pháp biểu hiện linh hoạt, văn phong sáng sủa.
Tản văn văn học
trên ý nghĩa hiện đại lại có lịch sử phát triển không dài. Năm 1917 Lưu Bán
Nông trong Quan niệm cải lương về văn học của tôi: đã xác định “tản văn văn học”
là một khái niệm, ông nói: “cái gọi là tản văn, cũng gọi là tản văn văn học,
nhưng là tản văn không lời” (Lưu Bán Nông: niệm cải lương về văn học của tôi,
xem Tư liệu tham khảo văn học hiện đại Trung Quốc, tập 1, quyển thượng. Nxb
Giáo dục cao đẳng, 1959, tr 35), nhưng trong tản văn như lời ông nói còn bao
hàm cả tiểu thuyết, tạp văn cho nên khái niệm tản văn văn học không thực sự rõ
ràng. Tháng 6 năm 1921, Chu Tác Nhân với bút danh Tử Nghiêm đã phát biểu một
bài luận ngắn về “Mĩ học”, trong đó, từ phương diện thể văn, xác nhận vị trí độc
lập của tản văn văn học, chỉ ra, loại tản văn này “là thể loại văn học mang
tính nghệ thuật, còn gọi là thể văn sáng tạo cái Đẹp. Nó có thể được phân ra
thành tự sự và trữ tình, nhưng hai loại này thường xuyên xuyến thấm vào nhau”.
(Tử Nghiêm (Chu Tác Nhân): Mĩ học, xem Lí luận tản văn hiện đại Trung Quốc, Nxb
Nhân dân Quảng Tây, 1984, tr3). Kiếm Tam (Vương Thống Chiêu), năm 1923 đã gọi
nó là “tản văn thuần nhất” (pure prose).
Tản văn có những đặc trưng thẩm mĩ sau:
Thứ nhất: đặc
trưng thẩm mĩ nổi bật của tản văn là tính trữ tình. Nhà văn sở dĩ có thể sáng
tác tản văn là do có “cảm nhận” mà “giãi bày”, do những gì nhà văn nhìn thấy, cảm
thấy, cảm xúc, cảm động, hưng phấn, cảm tưởng trong sinh hoạt, công tác học tập,
đọc sách, suy nghĩ cho đến tham quan du lịch. Tản văn đòi hỏi phải có “cảm nhận”
mới có “giãi bày”, cho nên nó tất yếu viết về những gì nhà văn tự mình trải
qua, tự mình cảm thấy, cái có trong nội tâm của mình. Nếu như tiểu thuyết là viết
về những sự việc của người khác thì tản văn lại là viết về những sự việc của
chính mình, cho dù có viết về người khác thì trên thực tế cũng là viết về chính
mình. Trên một ý nghĩa nào đó, cái mà tiểu thuyết viết là cái ngoài bản thân,
nhưng phần lớn cái mà tản văn viết lại là sự việc trong tim của tác giả; tiểu
thuyết rất dễ chạm đến, tản văn lại khó gặp, nó cơ hồ là sự phân thân của nhà
văn, là ghi lại rất thật sự hư cấu ngay trong bản thân nhà văn. Về tản văn
chính là sự biểu lộ ra một cách linh hoạt, nên tính chân thực là sinh mệnh, xác
thực là linh hồn, chân thành là căn bản của tản văn. Đối với sáng tác tản văn,
đề tài là cái có thể gặp nhưng không thể cầu, tản văn muốn bám vào chính con
người, cho nên tất yếu sẽ phải dựa vào tình cảm chân thành, thể nghiệm độc đáo,
mà tất cả những điều này đều yêu cầu một sự lịch duyệt trong cuộc sống và kinh
nghiệm nghệ thuật tương đương, không được cóp nhặt chắp vá. Có lẽ chính vì thế
nên mới lưu hành cách nói thiếu cơ sở: “tản văn là thể văn lâu đời”.
Thứ hai: Tản văn
là thể văn tự do phóng túng nhất. Tất cả những yếu tố của thể loại, đối với tản
văn đều hết sức tự do, phóng túng, bất luận là chọn đề tài, lập ý hay là bố cục
kết cấu, hay vận dụng thủ pháp biểu hiện, nó đều ít có tính quy phạm, cách thức,
hạn chế, tất cả đều lấy cảm nhận và giãi tác giả làm trung tâm(…157). Hồ Mộng
Hoa đã từng đề xuất khái niệm “tản văn tản mạn”. Ông chỉ ra: “Loại tản văn này
là loại tản văn có logic, lập luận chặt chẽ, là loại văn chương lí giải. Trong
tác phẩm luôn có nghị luận logic, thậm chí tranh luận kịch liệt, nhưng nó không
giống văn phê bình hay văn lí luận với thái độ trang nghiêm, khiến người đọc dường
như thấy trên giấy lộ ra dáng vẻ đầy sự tức giận, phấn khích, lộ ra hình dạng
trợn mắt, nghiến răng. Nó cũng là lời nói tào lao vui vẻ tản mạn của con người”.
Ông còn nói thẳng ra rằng, viết tản văn “cũng giống như anh xem báo hoặc nghe
những tin tức gì đó từ bên ngoài đưa về, nghe những lời nhỏ nhẹ của mẹ, của vợ,
của bạn thân quanh bàn trà, điếu thuốc”. Trần Thúc Hoa đã gọi văn tiểu phẩm tản
văn là “thể văn có ngôn từ điêu luyện, là “nói chuyện trên giấy”, “văn học đàm
thoại”. Ông nói: “Tác giả của thể văn này giống như người bạn thân, ngồi bên suối
nhỏ, ngồi dưới bóng cây, ngồi bên đống lửa đêm đông, lấy đề mục tương ứng làm
phương tiện biểu lộ chính mình”. Thậm chí ông còn mượn lời của Yisilite: “tác
giả mặc áo ngủ, đi dép lê, độc giả ẩn sau cánh gà” (Trần Thúc Hoa, Giải thích về
văn tiểu phẩm có ngôn ngữ tinh luyên, xem Bàn về nghệ thuật văn tiểu phẩm, Nxb
Phát thanh truyền hình Trung Quốc, 1990. tr 271).
Thứ ba: Tính đa
dạng về dạng thức và đề tài. Đề tài của tản văn đặc biệt rộng lớn, cơ hồ như
không gì nó không nói đến, như: lịch sử, hiện tại, tương lai, tự nhiên, xã hội,
nhân sinh, sự kiện, cảnh vật, tình cảm, tinh thần, ngôn luận, thiên văn, địa
lí, tôn giáo, văn hóa, nghệ thuật, triết học; rộng như biển, nhỏ như cây cỏ,
không có gì là không thể đưa vào ngòi bút của người viết tản văn; bất luận là
tìm hiểu vũ trụ, than thở về nhân sinh hay là cỏ cây hoa lá, cá mú chim muông;
bất luận là sắt tấm đồng thanh, hay nước chảy cầu nhỏ, gió sớm trăng tàn, tất cả
đều có thể trở thành đề tài của tản văn. Với sự vận tứ điêu luyện của một số
nhà văn, tản văn lại có thể bao hàm triết lí sâu sắc, tình ý đậm chất thơ, từ
đó tạo ra sức hấp dẫn đối với người đọc. Sự rộng lớn về đề tài của tản văn vượt
qua tất cả các thể loại văn học khác, do đó người ta gọi tản văn là “viện bảo
tàng của cuộc sống”. Cách nói này không có nghĩa tản văn là sự sắp xếp nhỏ lẻ,
nó cũng có thể có tiếng vang và vị thế lớn, nó cũng là thể văn lành mạnh và
phóng túng, có thể lấy tinh thần thời đại, xu hướng thẩm mĩ mới và tinh thần
phê phán để đưa ra cái nhìn thẩm mĩ đối với lịch sử, hiện thực. Chính trong
tình huống này, người ta đã đề xuất khái niệm “tản văn lớn”, giới tản văn cũng
lại một lần nữa kêu gọi tản văn phải có biên giới rộng.
Dạng thức của tản
văn rất phồn tạp, hình thức phong phú, không bó buộc vào một khuôn phép, bao gồm:
tùy bút, văn tiểu phẩm, tốc kí, đặc tả, du kí, phóng sự, hồi kí…. Khuôn khổ của
nó thường nhỏ, tản văn cổ đại thông thường chỉ 100 chữ, tất cả chỉ 100 chữ- rất
ngắn, tản văn hiện đại cũng chỉ có mấy nghìn chữ. Hình thức thể loại tản văn hết
sức linh hoạt, nó có liên hệ giao nhau với các thể loại khác, nó tự học theo
các thể loại khác, viết lảnh lót như thơ, hùng tráng như quân ca, khúc chiết
sinh động như tiểu thuyết. Trà hoa phú của Dương Sóc đã học tập dạng thức của
thể loại văn học kịch, tiểu thuyết, thơ ca. Dạng thức thể loại của tản văn vì vậy
mà khác thường, có tính tạo hình rất lớn.
Thứ tư: kết cấu
của tản văn rất tự do. Kết cấu của tản văn không chú ý vào “khai, thừa, chuyển,
hợp” như thơ ca, không phân cảnh phân hồi như kịch, mà có lúc gần lúc xa, lúc
trước lúc sau, hiện thực và lịch sử, tự nhiên và xã hội có sự giao thoa, triết
lí sâu sắc có thể biểu hiện ngay trong cuộc sống hằng ngày, tình cảm nồng nàn
được thể hiện thông qua tưởng tượng của cá nhân, thậm chí trên trời dưới đất,
trần gian biên giới đều có thể liên kết vào một điểm. Đặc điểm tự do trong kết
cấu này của tản văn khiến người đọc có cảm giác tản mạn, nhưng cái “tản” này
không phải là lộn xộn không có trật tự, không có tính văn chương, mà là trong
cái tản mạn có tật tự, trong cái tản mạn có văn chương. Cái trật tự ở đây là chỉ
tác giả đã căn cứ vào ý đồ sáng tác của mình và nhu cầu biểu hiện, đem toàn bộ
sự tổ chức có trật tự chứ không hề lộn xộn rối ren làm cho nó có “thần”, trong
lí luận về tản văn, người ta gọi điều này là “hình tản mà thần tụ”. Nói như vậy thì xét ở phương diện bề mặt, những
điều mà tản văn viết dường như là trời Nam đất Bắc, thời trước thời sau, vô
biên vô giới, vô cùng tản mạn, người ta gọi là “hình tản”, nhưng lại rất thống
nhất về chủ đề, tình cảm, tư tưởng (mặc dù tản mạn về tài liệu, hình thức, thủ
pháp…), người ta gọi là “thần tụ”. Tản mạn là hiện tượng bên ngoài, thần tụ là
bản chất bên trong. Đó mới là cái căn bản trong kết cấu rất tự do của tản văn.
Thứ năm: Ngôn ngữ
tản văn bóng bẩy, trong sáng, súc tích, tươi mới, tự nhiên. Tản văn không lấy
hiệu quả ở tình tiết, cũng không lấy nhân vật để khắc họa sự hiểu biết, đồng thời
cũng không yêu cầu có tình cảm đặc biệt mãnh liệt như thơ, đề tài của tản văn
tuy rộng nhưng cái rộng lớn đa dạng của nó là những điều bên ngoài mà tác giả tự
mình nhìn thấy, nghe thấy, suy nghĩ, mong muốn, cảm thấy, xúc động và cuộc sống
thường nhật cho đến những hiện tượng khác.
Loại nội dung và yêu cầu thể loại nhàn nhã tự tại của nó rất hợp với
ngôn ngữ tự nhiên, tươi mới, gọn gàng, bóng bẩy. Tản văn miêu tả nhân vật phải
sinh động như cuộc sống, rõ ràng như đang hiện ra trước mắt, truyền đạt âm
thanh phải giống hệt; tình cảm biểu hiện thì phải chân thực thiết tha, tế nhị;
thuyết lí nghị luận phải vừa trang trọng vừa hài hước, thú vị, không cần kiểu
cách mất tự nhiên, không cần che đậy, tất cả phải lên xuống tự do như mạch đập
của con người, như tiếng nước chảy trong khe núi.
Chủng loại của tản
văn rất phong phú đa dạng, bất kể từ góc độ nào, căn cứ nào đều có thể chia tản
văn thành rất nhiều loại. Thông thường thì người ta căn cứ vào đối tượng và hình
thức thể hiện để chia tản văn thành ba loại: tản văn tự sự, tản văn trữ tình, tản
văn nghị luận.
Tản văn tự sự vẫn
lấy sự kiện, nhân vật, cảnh vật làm nội dung biểu đạt chủ yếu, lấy sự trần thuật
miêu tả làm phương thức biểu đạt chủ yếu. Nó chú trọng kể việc, ghi người, tả cảnh
nhưng cũng không giống như kể việc ghi người tả cảnh trong tiểu thuyết. Kể chuyện
trong tản văn chỉ là trần thuật một số phiến đoạn của sự kiện; ghi người chỉ là
ghi một số mặt quan trọng của nhân vật, tả cảnh chỉ là tả một số phương diện
nào đó của cảnh vật; hơn nữa, những sự việc, con người, cảnh vật này đại đa số
chỉ là những sự việc, con người, cảnh vật mà tác giả đã tiếp xúc qua, tác giả
thường lấy nhân xưng ngôi thứ nhất “Tôi” làm sợi dây liên kết những phiến đoạn
của sự kiện, những mặt nào đó của nhân vật, phương diện nào đó của cảnh vật; thủ
pháp miêu tả thường là vận dụng lược thuật và phác họa, ngôn ngữ ít ỏi cốt chỉ
vẽ ra tình trạng của sự kiện, thần thái của nhân vật, đặc sắc của cảnh vật. Tản
văn tự sự chia thành: tản văn kí sự, tản văn ghi người, tản văn tả cảnh.
Tản văn trữ tình
là tản văn lấy sự bộc lộ tư tưởng, tình cảm của tác giả làm chủ đạo, điều căn bản
của nó là bộc lộ tình cảm. Trữ tình ở đây đã chỉ ra nội dung chủ yếu của nó là
tình cảm, đồng thời cũng chỉ ra thủ pháp biểu hiện chủ yếu của nó là trữ tình.
“Tình” trong tản văn trữ tình chiếm vị trí vô cùng quan trọng. Tản văn trữ tình
ưu tú phải lấy “tình” làm sợi dây sắp đặt kết cấu, tính chủ quan của nó đặc biệt
mãnh liệt. Ở phương diện này, tản văn trữ tình và thơ trữ tình có điểm giống
nhau, nhưng tản văn trữ tình khác với thơ trữ tình ở chỗ không trực tiếp bộc lộ
nỗi lòng mà phần nhiều là sự việc sinh tình cảm, mượn cảnh nói tình, lấy vật để
nói chí, “tình” của nó phải có cái dựa vào, tình thấm vào trong cảnh và vật rồi
bộc lộ ra, tình cảm chủ quan và cảnh vật khách quan nhập vào làm một. Ngoài ra
tình cảm trong tản văn trữ tình không tập trung như thơ trữ tình, nó thường là
sự trải rộng của tư tưởng tình cảm trong một tổ chức, sắp xếp hết sức công phu
của tài liệu. Ngôn ngữ tản văn khác ngôn ngữ thơ trữ tình là điều đã quá rõ
ràng.
Tản văn nghị luận là tản văn lấy việc nói rõ đạo lí, biểu đạt điều mình nhìn thấy làm nội dung chủ yếu, lấy nghị luận làm thủ pháp biểu hiện cơ bản. Tản văn nghị luận bám chắc vào sự kiện, nhân vật, hiện tượng có ý nghĩa điển hình phong phú trong đời sống, lấy sự đồng tình của bản thân nhà văn và những tư tưởng, kiến giải, chủ trương làm cơ sở lập luận, dùng ngôn ngữ sinh động giàu tính văn học, dùng cách viết trong sáng rõ ràng để khái quát đặc điểm, chỉ rõ bản chất, làm nổi bật quy luật, do đó, tản văn nghị luận có tính khuynh hướng tư tưởng rõ ràng và sắc thái tình cảm mãnh liệt. Tản văn nghị luận bao gồm tạp văn, văn tiểu phẩm, tùy bút…