Không biết tự bao giờ ánh trăng
đã đi vào văn học như một huyền thoại đẹp. Ở truyền thuyết “Chú cuội cung trăng” hay Hằng Nga trộm thuốc trường sinh là những
mảng đời sống tinh thần bình dị đậm đà màu sắc dân tộc của nhân dân ta. Hơn thế
nữa, trăng đã đi vào cuộc chiến đấu, trăng bảo vệ xóm làng, trăng được Chính Hữu
kết tinh thành hình ảnh “đầu súng trăng
treo” rất đẹp trong bài thơ Đồng chí
của mình.
Sau hơn mười năm làm thơ, Chính Hữu
cho ra mắt tập “Đầu súng trăng treo”.
Thế mới biết tác giả đắc ý như thế nào về hình ảnh thật đẹp, thơ mộng, rất thực
nhưng không thiếu nét lãng mạn đó.
Đầu súng trăng treo - đó là một hình ảnh tả thực một bức tranh tả thực và sinh động. Giữa núi rừng heo hút “rừng hoang sương muối” giữa đêm thanh vắng tĩnh mịch bỗng xuất hiện một ánh trăng treo lơ lửng giữa bầu trời. Và hình ảnh này cũng thật lạ làm sao, súng và trăng vốn tương phản với nhau, xa cách nhau vời vợi bỗng hoà quyện vào nhau thành một hình tượng gắn liền. Nhà thơ không phải tả mà chỉ gợi, chỉ đưa hình ảnh nhưng ta liên tưởng nhiều điều. Đêm thanh vắng người lính bên nhau chờ giặc tới, trăng chếch bóng soi sáng rừng hoang bao la rộng lớn, soi sáng tình cảm họ, soi sáng tâm hồn họ… Giờ đây, người chiến sĩ như không còn vướng bận về cảnh chiến đấu sắp diễn ra, anh thả hồn theo trăng, anh say sưa ngắm ánh trăng toả ngời trên đỉnh núi, tâm hồn người nông dân “nước mặn đồng chua” hay “đất cày trên sỏi đá” cằn cỗi ngày nào bỗng chốc trở thành người nghệ sĩ đang ngắm nhìn vẻ đẹp ánh trăng vốn có tự ngàn đời. Phải là một người có tâm hồn giàu lãng mạn và một phong thái ung dung bình tĩnh lạc quan thì anh mới có thể nhìn một hình ảnh nên thơ như thế. Chút nữa đây không biết ai sống chết, chút nữa đây cũng có thể là giây phút cuối cùng ta còn ở trên đời này nhưng ta vẫn “mặc kệ”, vẫn say sưa với ánh trăng.
Ánh trăng như xua tan cái lạnh
giá của đêm sương muối, trăng toả sáng làm ngời ngời lòng người, trăng như cùng
tham gia, cùng chứng kiến cho tình đồng chí đồng đội thiêng liêng của những
ngươì linh. Trăng truyền thêm sức mạnh cho họ, tắm gội tâm hồn họ thanh cao
hơn, trong sạch hơn, trăng cũng là bạn, là đồng chí của anh bộ đội Cụ Hồ.
Đầu súng trăng treo - hình ảnh thật
đẹp và giàu sức khái quát. Súng và trưng kết hợp nhau; súng tượng trưng cho chiến
đấu- trăng là hình ảnh của thanh bình hạnh phúc. Súng là con người, trăng là đất
nước quê hương của bốn nghìn năm văn hiến. Súng là hình ảnh người chiến sĩ gan
dạ kiên cường- Trăng là hình ảnh người thi sĩ. Sự kết hợp hài hoà tạo nên nét
lãng mạn bay bổng vừa gợi tả cụ thể đã nói lên lí tưởng, mục đích chiến đấu mà
người lính ấy đang tham gia. Họ chiến đấu cho sự thanh bình, chiến đấu cho ánh
trăng mãi nghiêng cười trên đỉnh núi. Ta hãy tưởng tượng xem: giữa đêm khuya rừng
núi trập trùng bỗng hiện lên hình ảnh người lính đứng đó với súng khoác trên
vai, nòng súng chếch lên trời và ánh trăng lơ lửng ngay nòng ngọn súng. Đó là
biểu tượng Khát Vọng Hoà Bình, nó tượng trưng cho tư thế lạ quan bình tĩnh,
lãng mạn của người bảo vệ Tổ quốc.
Cái thần của câu thơ “Đầu súng trăng treo” nằm ở từ “treo”, ta thử thay bằng từ mọc thì thật
thà quá, làm sao còn nét lãng mạn? Và hãy thay một lần nữa bằng từ “lên” cũng
không phù hợp, vì nó là hiện tượng tự nhiên: trăng tròn rồi khuyết, trăng lên
trăng lặn sẽ không còn cái bất ngờ màu nhiệm nữa. Chỉ có trăng “treo”. Phải, chỉ
có “Đầu súng trăng treo” mới diễn tả hết được cái hay, cái bồng bềnh thơ mộng của
một đêm trăng “đứng chờ giặc tới”, chẳng thơ mộng chút nào. Ta nên hiểu bài thơ
dường như được sáng tác ở thời điểm hiện tại “đêm nay” trong một không gian mà
mặt đất là “rừng hoang sương muối” lạnh lẽo và lòng đầy phấp phỏng giặc sẽ tới
có nghĩa là cái chết có thể đến từng giây từng phút. Thế nhưng người lính ấy vẫn
đứng cạnh nhau để tâm hồn họ vút lên nở thành vầng trăng. Nếu miêu tả hiện thực
thì vầng trăng ấy sẽ có hình khối của không gian ba chiều. ở đây, từ điểm nhìn
xa, cả vầng trăng và súng đều tồn tại trên một mặt phẳng và trong hội họa nó
mang tính biểu tượng cao. Tố Hữu cũng có một câu thơ kiểu này: “ánh sao đầu
súng bạn cùng mũ nan” và Phạm Tiến Duật thì “Và vầng trăng vượt lên trên quầng
lửa” hay Hoàng Hữu “Chỉ một nửa vầng trăng thôi một nửa. Ai bỏ quên ở phía chân
trời…”. Nhưng có lẽ cô kết nhất, hay nhất vẫn là “Đầu súng trăng treo”.
Như đã nói ở trên, không phải ngẫu
nhiên mà Chính Hữu lấy hình ảnh “Đầu súng trăng treo” làm tựa đề cho tập thơ của
mình. Nó là biểu tượng, là khát vọng và cũng là biểu hiện tuyệt vời chất lãng mạn
trong bài thơ cách mạng. Lãng mạng nhưng không thoát li, không quên được nhiệm
vụ và trách nhiệm của mình. Lãng mạn vì con người cần có những phút sống cho
riêng mình. Trước cái đẹp mà con người trở nên thờ ơ lãnh đạm thì cuộc sống vô
cùng tẻ nhạt. Âm hưởng của câu thơ đã đi đúng với xu thế lịch sử của dân tộc.
Hình ảnh trăng và súng đã có nhiều trong thơ Việt Nam nhưng chưa có sự kết hợp
kì diệu nào bằng hình ảnh “Đầu súng trăng treo” của Chính Hữu
Nếu như Elsa Trioslet – nữ văn sĩ
Pháp có nói “Nhà văn là người cho máu”
thì tôi hãnh diện nói với văn sĩ rằng: Chính Hữu đã cho máu để tạo nên câu thơ
tuyệt vời để cống hiến cho cuộc kháng chiến của chúng ta. Và bạn ơi! Bạn hãy thả
cùng tôi những chú chim trắng trên bầu trời, hãy hát vang lên ca khúc Hoà Bình
vì hình ảnh đầu súng trăng treo mà nhà thơ đã gởi vào đó bao nhiêu khát vọng
nay đã thành hiện thực. Phải chăng chất lính đã thấm dần vào chất thi ca, tạo
nên dư vị tuyệt vời cho tình " Đồng chí"
Nói đến thơ trước hết là nói đến
cảm xúc và sự chân thành. Không có cảm xúc, thơ sẽ không thể có sức lay động hồn
người, không có sự chân thành chút hồn của thơ cũng chìm vào quên lãng. Một
chút chân thành, một chút lãng mạn, một chút âm vang mà Chính Hữu đã gieo vào
lòng người những cảm xúc khó quên. Bài thơ " Đồng chí" với nhịp điệu
trầm lắng mà như ấm áp, tươi vui; với ngôn ngữ bình dị dường như đã trở thành
những vần thơ của niềm tin yêu, sự hy vọng, lòng cảm thông sâu sắc của một nhà
thơ cách mạng Phải chăng, chất lính đã thấm dần vào chất thơ, sự mộc mạc đã hòa
dần vào cái thi vị của thơ ca tạo nên những vần thơ nhẹ nhàng và đầy cảm xúc?
Trong những năm tháng kháng chiến
chống thực dân Pháp gian lao, lẽ đương nhiên, hình ảnh những người lính, những
anh bộ đội sẽ trở thành linh hồn của cuộc kháng chiến, trở thành niềm tin yêu
và hy vọng của cả dân tộc. Mở đầu bài thơ"Đồng chí", Chính Hữu đã
nhìn nhận, đã đi sâu vào cả xuất thân của những người lính:
"Quê hương anh đất mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá"
Sinh ra ở một đất nước vốn có
truyền thống nông nghiệp, họ vốn là những người nông dân mặc áo lính theo bước
chân anh hùng của những nghĩa sĩ Cần Giuộc năm xưa. đất nước bị kẻ thù xâm lược,
Tổ quốc và nhân dân đứng dưới một tròng áp bức. "Anh" và
"tôi", hai người bạn mới quen, đều xuất than từ những vùng quê nghèo
khó. Hai câu thơ vừa như đối nhau, vừa như song hành, thể hiện tình cảm của những
người lính. Từ những vùng quê nghèo khổ ấy, họp tạm biệt người thân, tạm biệt
xóm làng, tạm biệt những bãi mía, bờ dâu, những thảm cỏ xanh mướt màu, họ ra đi
chiến đấu để tìm lại, giành lại linh hồn cho Tổ quốc. Những khó khăn ấy dường
như không thể làm cho những người lính chùn bước:
“Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”
Họ đến với Cách mạng cũng vì lý
tưởng muốn dâng hiến cho đời. "Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình".
Chung một khát vọng, chung một lý tưởng, chung một niềm tin và khi chiến đấu, họ
lại kề vai sát cánh chung một chiến hào... Dường như tình đồng đọi cũng xuất
phát từ những cái chung nhỏ bé ấy. Lời thơ như nhanh hơn, nhịp thơ dồn dập hơn,
câu thơ cũng trở nên gần gũi hơn:
“Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Đồng chí!”
Một loạt từ ngữ liệt kê với nghệ
thuật điệp ngữ tài tình, nhà thơ không chỉ dưa bài thơ lên tận cùng của tình cảm
mà sự ngắt nhịp đột ngột, âm điệu hơi trầm và cái âm vang lạ lùng cũng làm cho
tình đồng chí đẹp hơn, cao quý hơn. Câu thơ chỉ có hai tiếng nhưng âm điệu lạ
lùng đã tạo nên một nốt nhạc trầm ấm, thân thương trong lòng người đọc. Trong
muôn vàn nốt nhạc của tình cảm con người phải chăng tình đồng chí là cái cung bậc
cao đẹp nhất, lí tưởng nhất. Nhịp thở của bài thơ như nhẹ nhàng hơn, hơi thở của
bài thơ cũng như mảnh mai hơn... Dường như Chính Hữu đã thổi vào linh hồn của
bài thơ tình đồng chí keo sơn, gắn bó và một âm vang bất diệt làm cho bài thơ
mãi trở thành một phần đẹp nhất trong thơ Chính Hữu. Hồi ức của những người
lính, những kỉ niệm riêng tư quả là bất tận:
"Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay"
Cái chất nông dân thuần phác của
những anh lính mới đáng quý làm sao! Đối với những người nông dân, ruộng nương,
nhà cửa là những thứ quý giá nhất. Họ sống nhờ vào đồng ruộng, họ lớn lên theo
câu hát ầu ơ của bà của mẹ. Họ lơn lên trong những "gian nhà không mặc kẹ
gió lung lay". Tuy thế, họ vẫn yêu, yêu lắm chứ những mảnh đất thân quen,
những mái nhà thân thuộc... Nhưng...họ đã vượt qua chân trời của cái tôi bé nhỏ
để đến với chân trời của tất cả. Đi theo con đường ấy là đi theo khát vọng, đi
theo tiếng gọi yêu thương của trái tim yêu nước. Bỏ lại sau lưng tất cả nhưng
bóng hình của quê hương vẫn trở thành nỗi nhớ khôn nguôi của mỗi người lính. Dẫu
răng" mặc kệ" nhưng trong lòng họp vị trí của quê hương vẫn bao trùm
như muốn ôm ấp tất cả mọi kỉ niệm. Không liệt kê, cũng chẳng phải lối đảo ngữ
thường thấy trong thơ văn, nhưng hai câu thơ cũng đủ sức lay đọng hồn thơ, hồn
người:
"Giếng nước gốc đa nhớ người
ra lính"
Sự nhớ mong chờ đợi của quê hương
với những chàng trai ra đi tạo cho hồn quê có sức sống mãnh liệt hơn. Nhà thơ
nhân hóa "giếng nước gốc đa" cũng có nỗi nhớ khôn nguôi với những người
lính. Nhưng không kể những vật vô tri, tác giả còn sử dụng nghệ thuật hoán dụ để
nói lên nỗi nhớ của những người ở nhà, nỗi ngóng trông của người mẹ đối với
con, những người vợ đối với chòng và những đôi trai gái yêu nhau...
Bỏ lại nỗi nhớ, niềm thương, rời
xa quê hương những người lính chiến đấu trong gian khổ:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán đẫm mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần anh có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày”
Câu thơ chầm chậm vang lên nhưng
lại đứt quãng, phải chăng sự khó khăn, vất vả, thiếu thốn của những người lính
đã làm cho nhịp thơ Chính Hữu sâu lắng hơn. Đất nước ta còn nghèo, những người
lính còn thiếu thốn quân trang, quân dụng, phải đối mặt với sốt rét rừng, cái lạnh
giá của màn đêm... Chỉ đôi mảnh quần vá, cái áo rách vai, người lính vẫn vững
lòng theo kháng chiến, mặc dù nụ cười ấy là nụ cười giá buốt, lặng câm. Tình đồng
đội quả thật càng trong gian khổ lại càng tỏa sáng, nó gần gũi mà chân thực,
không giả dối, cao xa...Tình cảm ấy lan tỏa trong lòng của tất cả những người
lính. Tình đồng chí:
“Là hớp nước uống chung, năm cơm bẻ nửa
Là chia nhâu một trưa nắng, một chiều mưa
Chia khắp anh em một mẩu tin nhà
Chia nhau đứng trong chiến hào chặt hẹp
Chia nhau cuộc đời, chia nhau cái chết”
(Nhớ - Hồng Nguyên)
Một nụ cười lạc quan, một niềm
tin tất thắng, một tình cảm chân thành đã được Chính Hữu cô lại chỉ với nụ cười
- biểu tượng của người lính khi chiến đấu, trong hòa bình cũng như khi xây dựng
Tổ quốc, một nụ cười ngạo nghễ, yêu thương, một nụ cười lạc quan chiến thắng...
"Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới"
Nhịp thơ đều đều 2/2/2 - 2/2/3 cô
đọng tất cả nét đẹp của những người lính. Đó cũng chính là vẻ đẹp ngời sáng
trong gian khổ của người lính. Vượt lên trên tất cả, tình đồng đội, đồng chí
như được sưởi ấm bằng những trái tim người lính đầy nhiệt huyết. Vẫn đứng canh
giữ cho bầu trời Việt Nam dù đêm đã khuya, sương đã xuống, màn đêm cũng chìm
vào quên lãng. Hình ảnh người lính bỗng trở nên đẹp hơn, thơ mộng hơn. Đứng cạnh
bên nhau sẵn sàng chiến đấu. Xem vào cái chân thực của cả bài thơ, câu thơ cuối
cùng vẫn trở nên rất nên thơ:
"Đầu súng trăng treo"
Ánh trăng gần như gắn liền với
người lính:
"Hồi chiến tranh ở rừng
Vầng trăng thành tri kỉ"
(Ánh trăng- Nguyễn Duy)
Một hình ảnh nên thơ, lãng mạn
nhưng cũng đậm chất chân thực, trữ tình. Một sự quyện hòa giữa không gian, thời
gian, ánh trăng và người lính. Cái thực đan xen vào cái mộng, cái dũng khí chiến
đấu đan xen vào tình yêu làm cho biểu tượng người lính không những chân thực mà
còn rực rỡ đến lạ kì. Chất lính hòa vào chất thơ, chất trữ tình hòa vào chất
Cách mạng, chất thép hòa vào chất thi ca. Độ rung động và xao xuyến của cả bài
thơ có lẽ chỉ nhờ vào hình ảnh ánh trăng này. Tình đồng chí cũng thế, lan tỏa
trong không gian, xoa dịu nỗi nhớ, làm vơi đi cái giá lạnh của màn đêm. người
chiến sĩ như cất cao tiếng hát ngợi ca tình đồng chí. Thiêng liêng biết nhường
nào, hình ảnh những người lính, những anh bộ đội cụ Hồ sát cạnh vai nhau "
kề vai sát cánh" cùng chiến hào đấu tranh giành độc lập.
Quả thật, một bài thơ là một xúc
cảm thiêng liêng, là một tình yêu rộng lớn, trong cái lớn lao nhất của đời người.
Gặp nhau trên cùng một con đường Cách mạng, tình đồng chí như được thắt chặt
hơn bằng một sợi dây yêu thương vô hình.
Bài thơ "Đồng chí" với ngôn ngữ chân thực, hình ảnh lãng mạn, nụ cười ngạo nghễ của các chiến sĩ đã lay động biết bao trái tim con người. Tình đồng chí ấy có lẽ sẽ sống mãi với quê hương, với Tổ quốc, với thế hệ hôm nay, ngày mai hay mãi mãi về sau...