Tố Hữu đã từng viết trong bài thơ “Theo chân Bác” của mình:
“Phan Bội Châu câu thơ dậy
sóng
Bạn cùng ai đất khách dãi
dầu”
Nhắc đến Phan Bội Châu là nhắc đến một nhà cách mạng yêu nước
với hướng đi mới về độc lập dân tộc. Với nhiều nhà văn, nhà thơ, sáng tác văn
học là cuộc đời. Nhưng Phan Bội Châu thì khác, ông dùng ngòi bút của mình như một công cụ
để phục vụ cách mạng, thể hiện lòng yêu nước và cái “tôi” của người chí sĩ cách
mạng. Trong một bộ sưu tập đồ sộ những tác phẩm gắn liền với tinh thần dân tộc,
nổi bật bài thơ “Xuất dương lưu biệt” – một sáng tác bộc lộ ước mơ lớn của ông
ở nơi đất khách quê người. Qua tác phẩm, ta còn thấy hình tượng nhân vật trữ
tình được khắc họa rõ nét, phản ánh cả cuộc đời của một nhà Nho dám dũng cảm
không đi theo lối mòn xưa cũ.
Nhân vật trữ tình được hiểu là một cách bộc lộ tình
cảm cảm xúc trong tác phẩm văn học, trực tiếp chính là tác giả, hay gián tiếp
bằng cách tác giả hóa thân vào nhân vật trong thơ để thể hiện. Đôi khi, nhân
vật trữ tình chỉ biểu hiện qua câu thơ, ý chữ chứ không có đối tượng biểu đạt
cụ thể. Nhưng dù bằng cách này hay cách khác, đây cũng là một nét đẹp nghệ
thuật trong thơ ca, được các nhà thơ thường sử dụng để diễn tả tâm trạng. Với
“Xuất dương lưu biệt”, nhân vật trữ tình không ai ngoài tác giả. Nỗi niềm “dân
là dân nước, nước là nước dân” của Phan Bội Châu qua từng ý thơ, nhịp điệu,
biện pháp tu từ đều rõ ràng hơn bao giờ hết. Là người khơi nguồn cho văn chương
trữ tình cách mạng, sáng tác của ông – đặc biệt trong bài thơ này mang đến vẻ
đẹp vừa lãng mạn vừa hào hùng với tấm lòng sôi trào hi vọng cứu nước.
Tấm lòng ấy thể hiện qua hai câu thơ đầu một quan niệm mới về chí làm trai và tầm vóc con người trong vũ trụ. Là một đấng nam nhi “đầu đội trời, chân đạp đất”, người thanh niên phải sống sao cho phi thường, hiển hách. Khó khăn, thử thách, gian nan cuộc đời đâu dễ làm chùng bước những con người nắm giữ vận mệnh núi sông. Việc cần làm là đối mặt với chúng, xoay chuyển càng khôn, đổi dời thời thế, biến không thể thành có thể, chứ lẽ nào họ đi an phận, nhàn hạ ở quê nhà, ngày ngày trôi qua một cách tẻ nhạt, chán chường, buông xuôi số phận. Điều đó được khẳng định qua cuộc đời của Phan Bội Châu – “vị anh hùng, vị thiên sứ, đấng xả thân vì độc lập, được mấy mươi triệu con người yêu quý”. Vốn tài năng văn chương của ông quá đủ để ông ghi tên mình trong tiếng tăm lịch sử, nhưng ông tâm niệm việc cần làm nhất lúc bấy giờ chính là tìm ra con đường cứu nước mới, giải phóng dân tộc khỏi vòng nô lệ, khỏi khổ đau dưới ách thống trị đế quốc. Ông cầm bút do yêu cầu cách mạng, xem đó như một việc phụ trợ cho công cuộc tuyên truyền, vận động, khơi dậy lòng yêu nước sâu thẳm chất chứa trog tim mỗi người, bởi một bài thơ luôn có sức thu hút hơn vạn lời kêu gọi. Đó chẳng phải nhà thơ đã trực tiếp lấy bản thân mình làm minh chứng hùng hồn cho quan niệm mới về chí làm trai phải phục vụ Tổ quốc, nhân dân hay sao?
“Sinh vi nam tử yếu hi kì
Khẳng khứa càng khôn tự
chuyển di”
Hai câu thơ trên với giọng thơ ngang tàng, khỏe
khoắn, từ ngữ mạnh mẽ, bộc lộ bản lĩnh thách thức cuộc đời của người thanh niên
trong thời đại mới.
Là con người tồn tại, ai cũng gánh trên vai ít nhiều
những trách nhiệm khác nhau. Với người thanh niên cũng vậy. Trách nhiệm của họ
trước hết là phải luôn kết nối giữa con đường của mình và hướng đi của quê
hương, dẫn dắt Tổ quốc này đến một tương lai tươi sáng, thoát khỏi chuỗi ngày
bị trị đau đớn, lầm than. Đó cũng là vẻ đẹp của nhân vật trữ tình được thể hiện
qua hai câu thực:
“U bách niên trung tư hữu ngã
Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy”
Bằng cách sử dụng phép
đối “Ư bách niên trung” – “Khởi thiên tải hậu” và “hữu” – “vô”, tác giả vừa
khẳng định vai trò của bản thân giữa cuộc thế, vừa nương theo một khát vọng
chính đáng về sự tín nhiệm thế hệ mai sau. Trong một trăm năm có ông tồn tại,
cống hiến và giúp ích cho đời, đất nước đã có những bước chuyển quan trọng, tuy
không hoàn toàn thoát khỏi ách đô hộ của thực dân nhưng phần nào làm cháy lên ngọn
lửa hi vọng độc lập của nhân dân. Rồi đây, khi con người không thể vượt qua cái
gọi là “sinh, lão, bệnh, tử”, đất nước mất đi một nhân tài như ông thì liệu
tương lai còn được trông đợi? Câu hỏi tu từ là sự phân vân của tác giả, ông như
cổ vũ tinh thần yêu nước của thế hệ trẻ, đồng thời cũng gợi một chút lo lắng
của mình cho quê hương. Ở bản dịch thơ, chữ “ta” của bài thơ gốc được dịch
thoát nghĩa thành “tớ”. Từ “tớ” này mang chút hóm hỉnh, lạc quan, có nét trẻ
trung của thanh niên, nhưng lại thiếu đi sự nghiêm túc, mạnh mẽ, quan trọng khi
khẳng định tư thế hiên ngang vào đời của câu thơ chữ Hán. Đoạn thơ nói về ước
mơ cao cả và niềm tin của một con người sống với trách nhiệm lớn – cái “tôi” cá
nhân vĩ đại sẵn sàng chịu trách nhiệm với bản thân và với non sông, đất nước.
Vẻ đẹp của nhân vật trữ
tình ở hai câu luận tiếp tục được diễn tả qua thái độ của tác giả trước hoàn
cảnh đất nước và những tín điều xưa cũ. Phan Bội Châu sinh ra trong bối cảnh
nước mất nhà tan. Dù không phải chứng kiến hằng ngày những trận chiến đẫm máu,
tàn khốc hiện lên trước mắt, nhưng đối mặt với kiếp sống nghèo nàn của nhân
dân, tiếng than, tiếng oán, tiếng hận như cứa vào tâm can nhà thơ. Cũng như
Trần Hưng Đạo từng viết: “ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau
như cắt, nước mắt đầm đìa. Chỉ căm tức chưa xẻ thịt lột da, nuốt gan uống máu
quân thù.” Có lẽ, tác giả cũng từng đau rất nhiều vì hiện thực phũ phàng, xót
xa:
“Giang sơn tử sĩ sinh đồ nhuế,
Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si!”
Nỗi nhục này, ai sẽ thấu
hiểu cho ông? Vinh và nhục – sống và chết, ranh giới mỏng manh đặt ra thử thách
làm sao khôi dậy sự độc lập và hưng thịnh của nước nhà. Sự tồn vong dân tộc như
tảng đá đè nặng trong lòng, ngày nào chưa giành lại tự do, nhà thơ vẫn còn cảm
thấy khổ sở. Tấm lòng đó làm thổi bùng lên ý chí sắt thép của con người không
cam chịu sống nô lệ, đúng với truyền thống đạo lí ngàn đời của ông cha ta. Lúc
bấy giờ, sách vở thánh hiền đã chẳng còn giúp ích được gì trong thời loạn lạc. Nhà
thơ bàn về việc học bằng cách tự giãi bày, bộc bạch, thẳng thắn đối diện với
quan niệm đã lạc hậu rồi. Phải thay đổi, vì chỉ có thế mới có được tư tưởng
sáng suốt nhất, làm cương lĩnh cho sự nghiệp cứu nước khẩn cấp, cần thiết tức
thì. Bám vào học hành chỉ có lối mòn duy nhất, nay đã thành ngõ cụt, cũng sẽ
không tránh khỏi lạc đường. Tất nhiên, hướng đi mới chính là ánh sáng, là tương
lai, là bộ mặt mới của quốc gia này.
Cuối bài, tác giả kết
thúc bằng hai câu thơ diễn tả tư thế và khát vọng hành động buổi lên đường
“xuất dương” sang xứ sở lạ:
“Nguyện trục trường phong Đông hải khứ
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi”
Các hình ảnh khoa
trương, phóng đại được tác giả sử dụng làm thiên nhiên như hòa nhập vào con
người, cùng đồng hành thực hiện lí tưởng lớn lao. Các hình ảnh này trong bản
dịch thơ là “bể Đông”, “cánh gió”, “muôn trùng sóng bạc”, mang đầy vẻ đẹp lãng
mạn, nhẹ nhàng, êm ả, bình lặng, giảm đi khí thế hùng mạnh, vĩ đại. Ngược lại ở
bài thơ chữ Hán, cụm từ “nhất tề phi” vẽ nên biểu tượng con người được chắp đôi
cánh lớn bay lên vượt tầm thực tại, xuyên qua bầu trời thẳng đến vũ trụ bao la.
Qua đó, đọc giả cảm nhận được hai tầng nghĩa của cùng một câu thơ, vừa đẹp lãng
mạn vừa mang tính sử thi. Nếu như tính sử thi trong văn học trung đại gắn với
vua, mang tính “trung quân ái quốc”, thì ở bài thơ này, tác giả đã kế thừa
truyền thống văn học và nâng khuynh hướng này lên với văn học hiện đại, gắn với
yếu tố cá nhân và cộng đồng. Nét hiện đại này tạo hiệu quả tích cực, làm cho
bài thơ thêm hấp dẫn và phát huy mục đích cổ vũ lẽ sống tích cực ở thế hệ trẻ:
sống để phục vụ Tổ quốc, nhân đân.
Vào những năm đầu thế kỉ
XX, khi nước nhà lâm vào chế độ thực dân nửa phong kiến, có một nhà chí sĩ cách
mạng đã lãnh tụ nhiều phong trào cứu nước mới. Bài thơ “lưu biệt khi xuất
dương” là lời giã từ của người trước khi lên thuyền đến nơi chân trời mới. Bài
thơ mang tư tưởng tiếp nối truyền thống yêu nước trong văn học trung đại, lại
mở ra nhiều ý độc đáo, đặc biệt mà văn học hiện đại đang trong quá trình khai
thác. Sự hòa quyện, tổng hợp ấy làm nổi bật lên vẻ đẹp của hình tượng nhân vật
trữ tình trong bài. Tác phẩm đã hoàn thành tốt vai trò, mục đích của nó khi
khích lệ những thanh niên tran đầy nhiệt huyết tham gia con đường giải phóng
dân tộc, đi theo tiếng gọc quê hương và thực hiện trách nhiệm “làm trai” giữa
đời như Nguyễn Công Trứ từng nói:
“Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông”.