Hình tượng anh Vệ quốc quân - Người lính Cụ Hồ - được khắc
họa đậm nét trong nhiều bài thơ của nhiều tác giả. Ở giai đoạn đầu của cuộc
kháng chiến chống Pháp, hình tượng người lính trong mỗi bài thơ có sức hấp dẫn,
cổ vũ và với vẻ đẹp riêng, nét riêng nổi bật thể hiện trong cảm hứng. "Đồng
chí" của Chính Hữu, chủ yếu là cảm hứng hiện thực giữa cảnh và người;
"Tây tiến" của Quang Dũng phát triển cảm hứng lãng mạn nhằm khắc họa
nét phi thường, kỳ vĩ, hùng tráng của người lính.
"Tây tiến" quan niệm người anh hùng theo lý tưởng
thẩm mỹ cổ điển, truyền thống; còn "Đồng chí" tô đậm nét hiện thực,
bình dị, sự lam lũ, chất phác của người nông dân chân chất hiền lành, không có
ý định làm anh hùng hoặc để được tôn vinh là anh hùng. Họ tìm thấy sức mạnh ở đồng
chí, đồng đội, ở một tình cảm thiêng liêng, cao cả và mới mẻ trong những người
nông dân được giác ngộ trở thành người lính.
Trong thơ Quang Dũng và thơ Chính Hữu nói riêng, có sự "đổi ngôi" của cái "Tôi" trữ tình. Cái "Tôi" trong thơ ca là một khái niệm "kép", bao gồm 2 bình diện: một là cái "Tôi" với tư cách là chủ thể nhận thức, hoạt động tư duy, và hai là cái "Tôi" đối tượng cảm thụ với vai trò khách thể. Trong thơ kháng chiến nói chung, cái "Tôi" cơ bản ở bình diện quan sát, nhận thức, rung cảm với cuộc sống lớn. Điều đó tạo ra nét mới trong thơ, thơ rộng mở trong hơi thở cuộc sống, tắm mình trong không khí thời đại, sự giao hòa này tạo cho thơ thêm đa dạng, phong phú.
Chân dùng tinh thần người lính
trong "Tây tiến" mang nét hoành tráng, kỳ vĩ, bí hiểm nổi bật trong bối
cảnh hoang sơ, dữ dội, nghiệt ngã và cũng vô cùng mơ mộng trong không gian cụ
thể của vùng núi Tây Bắc:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm
thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước
xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Bằng bốn câu thơ nhưng hiện lên một
bức tranh toàn cảnh với đầy đủ nét hoang vu, heo hút, dữ dằn và vô cùng hiểm trở
trên chặng đường hành quân của người lính Tây tiến. Một loạt những từ giàu giá
trị tạo hình mang tính hội họa, với những mảng hình khối, đường nét, màu sắc
"Dốc lên khúc khuỷu" rồi lại "Dốc thăm thẳm"; các từ láy
"heo hút", "thăm thẳm", "khúc khuỷu" như những
nét chạm khắc đặc sắc tạo nên những ấn tượng về dốc cao, vực sâu. Cả những
thanh trắc tả chiều cao khi leo lên và những thanh bằng gợi khoảng không gian
khi leo xuống: "Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi".
Trong gian nan thử thách không đè
bẹp nổi ý chí, nghị lực, sức sống của người lính Tây tiến, nét đẹp của họ một
phần cũng chính là chỗ đó. Vẫn sống mãi với thời gian ấn tượng mãnh liệt không
phai bạc, mờ nhòa theo năm tháng:
Tây tiến những đoàn binh
không mọc tóc
Quân xanh màu
lá dữ oai hùm
Quang Dũng khéo chọn cách nói, có
tóc rụng, có da xanh của anh lính ốm (ốm nhưng không yếu) nhưng không mất đi
dáng vẻ kiêu bạc, anh hùng, vẫn phong thái "dữ oai hùm" giữa chốn sơn
cùng thủy tận. Ngay cả sự "ra đi" cũng rất nhẹ nhàng của những anh
hùng hào hoa, mã thượng: "Áo bào thay chiếu anh về đất". Ba lần nói về
sự hy sinh trong những hoàn cảnh khác nhau của người lính "Tây tiến"
nhưng không một lần như nhiều nhà thơ vẫn dùng từ "hy sinh" hoặc
"chết". Quang Dũng bằng ngòi bút tài hoa sử dụng những cụm từ "hồn
về", "bỏ quên đời", "về đất" giản dị hơn, nhằm tự
nhiên hóa, bình thường hóa cái chết, đúng theo quan niệm lý tưởng của học sinh,
sinh viên cầm súng thời kỳ đầu kháng chiến, còn hừng hực hào khí.
Với bút pháp lãng mạn, cốt cách
tài hoa và phong độ hào hùng của chiến sĩ - thi sĩ trên cả hai bình diện tác giả
và tác phẩm, Quang Dũng đã tạc bằng ngôn ngữ thi ca vào lịch sử, hình tượng người
lính Vệ quốc anh hùng.
Mang nét riêng, người lính Vệ quốc
trong "Đồng chí" của Chính Hữu bình dị trong nghĩ suy mà "sâu sắc
đến giật mình" (Xuân Diệu). Chất liệu hiện thực cuộc sống được đưa vào thơ
vừa đủ tạo men say cảm xúc và nâng tầm khái quát.
Cách mạng Tháng Tám không chỉ phục
sinh một dân tộc, khai sinh một thời đại, tân tạo những bảng thang giá trị tinh
thần, mà còn trả lại cho mỗi người cuộc sống mới; kiến tạo những quan hệ mới,
tình cảm mới chưa hề có trong lịch sử, trong văn hóa ứng xử của cộng đồng. Đó
là tình đồng chí đồng đội. Chính quan hệ mới, tình cảm mới này tạo nên những vẻ
đẹp khác trong chân dung tinh thần người lính Vệ quốc.
Không kỳ dị "đoàn binh không
mọc tóc", "mắt trừng gửi mộng qua biên giới" như trong thơ Quang
Dũng. Người lính Vệ quốc trong thơ Chính Hữu vô cùng bình dị, hiền lành, chất
phác. Bức tranh về hai người vệ quốc được phác thảo bằng chất liệu cuộc sống đồng
quê, trên nền "nước mặn đồng chua", "đất cày lên sỏi đá" của
những người có cùng cảnh ngộ; từ những vùng nông thôn khác nhau trên nhiều miền
đất nước có chung cảnh nghèo. Những người nông dân đồng cảnh, đồng cảm nên đồng
tâm, đồng chí trong chọn lựa mục đích cống hiến, chiến đấu. Mở đầu bài thơ là sự
gặp gỡ của hai người đồng cảnh:
Quê hương anh nước mặn đồng
chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi
đá
Sự tương đồng về hoàn cảnh tạo
nên cộng hưởng trong tình cảm gắn bó:
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời
chẳng hẹn quen nhau
Nhưng cái khốn khó, nghèo khổ của
những con người ở những vùng miền khác nhau không vì vậy mà hèn kém (nghèo
nhưng không hèn), nghĩa là không bị cái cảnh nghèo bó buộc, câu thúc, người
nông dân vượt lên số phận, vượt lên cảnh ngộ, ở trên tầm khốn khó bước vào cuộc
chiến.
Quân đội ta từ nhân dân mà ra,
người lính Vệ quốc hầu hết thoát thai từ nông dân, trong hành trang người lính
mang theo có cái nghèo đeo đẳng "Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ".
Cái rét trong rừng sâu, cái rét trong vùng địch hậu, cái rét được đề cập phản
ánh trong nhiều bài thơ kháng chiến, không chỉ chuyển tải nét khắc nghiệt của
khí hậu, mà còn đối sánh cảnh nồng ấm của nghĩa tình đồng chí - đồng đội, nghĩa
tình quân - dân. Câu thơ của Chính Hữu vừa nói lên một thực tế về sự thiếu thốn
của người lính Vệ quốc trong kháng chiến, nhưng cao hơn là một thực tế khác:
Cái rét đã tạo nên tình tri kỷ giữa hai người chung chăn.
Thơ kháng chiến nói chung, thơ
Chính Hữu nói riêng, cái "Tôi" trữ tình không đơn thuần là cái
"Tôi" cá nhân, tâm trạng, cái "Tôi" phô diễn, cái
"Tôi" giãi bày, mà là cái "Tôi" thế hệ, cái "Tôi"
công dân, cái "Tôi" sử thi. Ở đây "Anh-Tôi" chuyển hóa
trong biên độ cái "Ta" chung, cái "Ta" đa số đông đảo:
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài
mảnh vá
Nhưng không vì vậy mà người lính
mất đi niềm tin, niềm lạc quan, vẫn yêu đời, yêu người trong tình đồng chí - đồng
đội:
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn
tay
Hai người lính Vệ quốc trong tình
đồng chí, trong nhiều câu thơ có hai vế nhưng một hoàn cảnh. Do vậy, có khi chỉ
một hoàn cảnh nhưng người đọc liên tưởng cho cả hai. Có lúc câu thơ nói gia cảnh
một người mà như cả hai:
Ruộng nương anh gửi bạn thân
cày
Gian nhà không
mặc kệ gió lung lay
Điều này cho thấy thêm một bình
diện trong chân dung tinh thần người lính vệ quốc, đó là sự hy sinh âm thầm
không so đo, mặc cả, không toan tính thiệt - hơn cho cuộc kháng chiến của dân tộc.
Chính vẻ đẹp này ánh xạ rực rỡ cái tình của những người "đồng chí"
trong thơ.
Đóng góp của Quang Dũng và Chính
Hữu cho nền thơ kháng chiến trên nhiều lĩnh vực thi pháp. Bằng chính cuộc đời với
những trải nghiệm, kiểm chứng, bằng vốn sống phong phú của đời lính, các anh đã
phản ánh được nhiều nét thẩm mỹ khác nhau về chân dung tinh thần của một thế hệ
cầm súng trong "ba ngàn ngày không nghỉ", góp phần quan trọng làm nên
những trang sử vẻ vang nhất của dân tộc.