MỖI CLICK VÀO QUẢNG CÁO SẼ GIÚP CHÚNG TÔI PHỤC VỤ CÁC BẠN TỐT HƠN

Dàn ý phân tích bài thơ "Bài thơ về tiểu đội xe không kính" của Phạm Tiến Duật

 Đề bài: Phân tích bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật

I. Mở bài

Những năm tháng chống Mỹ hào hùng của dân tộc đã để lại biết bao hồi ức và những dấu ấn khó phai mờ. Hình ảnh những những cô gái thanh niên xung phong, anh bộ đội cụ Hồ là một trong những hình ảnh đẹp nhất, lãng mạn và anh hùng nhất trong kháng chiến. “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” chính là một trong những minh chứng tiêu biểu cho nét tinh nghịch cũng như tinh thần bất khuất, hiên ngang hào hùng của người chiến sĩ.

Dàn ý Phân tích bài thơ về tiểu đôi xe không kính
Dàn ý Vẻ đẹp người lính trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính

II. Thân bài
1. Khái quát: Bài thơ được sáng tác năm 1969. Đây là thời điểm cuộc kháng chiến chống mĩ đang diễn ra vô cùng ác liệt. Bài thơ nằm trong chùm thơ đoạt giải nhất cuộc thi thơ do báo văn nghệ tổ chức và được in trong tập thơ “Vầng trăng quầng lửa” năm 1970.

2. Hình ảnh những chiếc xe không kính:

- Xưa nay, xe cộ rất ít khi đi vào thơ ca, nếu có thì thường được “thi vị hóa”, “lãng mạn hóa”. Nhưng những chiếc xe được Phạm Tiến Duật đưa vào thơ lại thực đến trần trụi:

Không có kính không phải vì xe không có kính

Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi

Nghệ thuật

Nội dung

Với giọng điệu thản nhiên pha chút ngang tàng, lời thơ mang tính khẩu ngữ, hình ảnh độc đáo, điệp ngữ “không” kết hợp với nghệ thuật liệt kê, động từ mạnh “giật, rung”

tác giả đã làm hiện lên hình ảnh những chiếc xe mang trên mình đầy thương tích bởi bom đạn chiến tranh.

=> Hai câu thơ đầu lí giải nguyên nhân những chiếc xe không có kính, đồng thời thể hiện tâm trạng xót xa cho những chiếc xe- người bạn đồng hành thủy chung của những người lính.

 Qua đó, tác giả tạo ấn tượng cho người đọc một cách cụ thể và sâu sắc về hiện thực chiến tranh khốc liệt, về cuộc chiến đấu gian khổ mà người lính phải trải qua.

- Hình ảnh những chiếc xe không kính một lần nữa lại được tác giả miêu tả một cách chân thực, sinh động ở khổ thơ cuối:

Không có kính rồi xe không có đèn

Không có mui xe thùng xe có xước

Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước

Chỉ cần trong xe có một trái tim.

Nghệ thuật

Nội dung

Nghệ thuật liệt kê “không có kính, không có đèn, không có mui, thùng xe có xước” kết hợp với điệp ngữ: “không có” mang ý phủ định

đã nhấn mạnh những chiếc xe không chỉ không kính mà còn không đèn, không mui… bị biến dạng, tàn phá nặng nề. Mặc dù vậy, xe vẫn băng ra chiến trường.

=> Từ trong hiện thực khốc liệt đến trần trụi, những chiếc xe không kính bỗng trở nê thành một hình ảnh độc đáo, “nên thơ”- chất thơ của lòng yêu nước, tinh thần quả cảm mà những người lính đã đem lại cho chiếc xe từ chính trái tim nhiệt huyết của mình- trái tim cầm lái. 

2. Hình ảnh những người lính lái xe.

- Thiếu những phương tiện vật chất tối thiểu lại là hoàn cảnh để người lái xe bộc lộ những phẩm chất cao đẹp:

a. Tư thế ung dung, hiên ngang, sẵn sàng ra trận

Ung dung buồng lái ta ngồi,

Nhìn đất, nhìn trời nhìn thẳng

Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng

Thấy con đường chạy thẳng vào tim

Thấy sao trời và đột ngột cánh chim

Như sa như ùa vào buồng lái

Nghệ thuật

Nội dung

Nghệ thuật đảo ngữ: đưa từ láy “ung dung” lên đầu câu kết hợp với đại từ “ta”

Đã nhấn mạnh tư thế bình thản, hiên ngang, tự tin tiến về phía trước của người lính lái xe.

- Với nhịp thơ: 2/2/2(Nhìn đất, nhìn trời nhìn thẳng)

- Giọng điệu: đùa vui hóm hỉnh, điệp ngữ “nhìn” kết hợp với nghệ thuật liệt kê

 

Đã cho thấy cái nhìn đầy tự chủ, nhìn thẳng về phía trước như sẵn sàng chấp nhận mọi khó khăn.

- Qua khung cửa xe, người lái xe tiếp xúc trực tiếp với thế giới bên ngoài, với mọi khó khăn, gian khổ.

 

Điệp ngữ “nhìn thấy”, nghệ thuật nhân hóa “gió xoa mắt đắng”, từ láy “đột ngột” và nghệ thuật so sánh

Đã diễn tả sự cảm nhận thế giới bên ngoài một cách chân thực, sinh động của người lính do những chiếc xe không kính đem lại.

Hình ảnh “con đường chạy thẳng vào tim”

- Gợi đến tốc độ lao nhanh của chiếc xe, khiến cho người cầm lái và con đường như không còn khoảng cách. Điều đó cho thấy sự khẩn trương của người lính đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam.

- Còn là hình ảnh ẩn dụ về con đường chiến đấu vì mền Nam độc lập.

Hình ảnh “gió, sao trời, cánh chim” là những hình ảnh là hình ảnh của thiên nhiên đẹp, gợi cảm

thể hện nét lãng mạn trong tâm hồn người lính.

b. Tinh thần lạc quan, bất chấp gian khổ, coi thường hiểm nguy của người lính.

Xe không kính, người lính còn phải chịu thêm những khắc nghiệt của Trường Sơn:

Không có kính ừ thì có bụi

Bụi phun tóc trắng như người già

Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc

Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha


Không có kính ừ thì ướt áo

Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời

Chưa cần rửa, lái trăm cây số nữa

Mưa ngừng gió lùa khô mau thôi

Nghệ thuật

Nội dung

Hình ảnh “mưa, gió, bụi”

tượng trưng cho những gian khổ mà người lính gặp phải do những chiếc xe không kính đem lại.

Điệp cấu trúc “không có… ừ thì” “chưa cần”

- BPNT so sánh: như, từ láy “phì phèo”, “ha ha”.

Đã cho thấy thái độ bất chấp khó khăn, coi thường gian khổ, hiểm nguy, tinh thần lạc quan, dũng cảm của người lính.

Sự phối hợp thanh điệu: những thanh trắc “bụi, tóc trắng, lấm, ướt áo, xối”… đặc tả những khó khăn, gian khổ kết hợp với những thanh bằng, đặc biệt câu cuối đoạn gợi những phút yên ả, ung dung trong buồng lái.

=> Ngay trong hoàn cảnh khắc nghiệt, người lính vẫn tìm được giây phút thư thái. Đó là bản lĩnh của những chiến sĩ lái xe.

- Ngôn ngữ: mang tính khẩu ngữ

- Giọng điệu thơ hóm hỉnh, khẩu khí ngang tàng, lời thơ gần với ngôn ngữ đời thường.

Đã làm nổi bật lên niềm vui, tiếng cười của người lính. Tiếng cười bật lên sảng khoái, lạc quan khác với tiếng cười “buốt giá” ngậm ngùi động viên nhau của người lính thời kí kháng chiến chống Pháp trong thơ Chính Hữu.

=> Chính sự lạc quan, tinh thần dũng cảm của người lính lái xe ấy đã giúp những chiếc xe không kính vượt qua bao mưa bom bão đạn, giúp cuộc chiến đi gần hơn đến thắng lợi.

 c. Tình đồng chí, đồng đội cao đẹp của người lính lái xe (khổ 5, 6)

Và trong cuộc chiến tranh đầy gian lao, thử thách ấy, tình cảm đồng chí, đồng đội lại càng trở nên gắn bó và gần gũi với nhau hơn:

Những chiếc xe từ trong bom rơi

Đã về đây họp thành tiểu đội

Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới

Bắt tay nhau qua của kính vỡ rồi

Nghệ thuật

Nội dung

Hình ảnh “những chiếc xe từ trong bom rơi”

là một hình ảnh tả thực về những chiếc xe vượt qua bao thử thách khốc liệt của chiến trường trở về

Cách gọi “tiểu đội”

là cách nói dí dỏm, giàu hình ảnh, vừa gợi lên những đoàn xe mang trên mình biết bao thương tích của chiến tranh, vừa gợi lên được cái thân thương thắm tình đồng đội.

Hình ảnh “bắt tay …” rất giàu sức gợi

Những chiếc xe không kính lại đem lại sự tiện lợi để người lính trao cho nhau những cái bắt tay. Cái bắt tay:

+ Đã cho thấy tinh thần đoàn kết, gắn bó với nhau của các chiến sĩ lái xe.

- Thể hiện được sự đồng cảm sâu sắc trong tâm hồn của những người lính.

.+ Là lời động viên ngắn ngủi, thầm lặng mà họ dành cho nhau, là lời hứa quyết tâm…

+ Là sự chia sẻ vội vàng tất cả những vui buồn kiêu hãnh trên những cung đường đã qua.

Cuộc trú quân ngắn ngủi mà thắm tình đồng đội, những bữa cơm nhanh dã chiến, chung bát chung đũa là sợi dây vô hình giúp các chiến sĩ xích lại gần nhau hơn:

Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời

Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy

Võng mắc chông chênh đường xe chạy

Lại đi, lại đi trời xanh thêm.

Nghệ thuật

Nội dung

Câu thơ “chung…”

là cách định nghĩa “rất lính”, tếu táo nhưng chân tình, sâu nặng. Gắn bó với nhau trong chiến đấu, họ càng gắn bó với nhau trong đời thường.

Từ láy “chông chênh”

Gợi cảm giác bấp bênh, tạm bợ, cho thấy phút nghỉ ngơi vội vàng của người lính.

Điệp ngữ “lại đi” kết hợp với nhịp thơ 2/2/3

tạo âm điệu nhịp nhàng cho câu thơ, khẳng định đoàn xe không ngừng tiến về phá trước. Đó là nhịp sống, chiến đấu và hành quân của tiểu đội xe không kính mà không một sức mạnh tàn bạo nào ngăn cản được.

Nghệ thuật ẩn dụ “trời xanh thêm”

Màu xanh của niềm tin, hi vọng vào ngày mai, gợi sự lạc quan của người lính.

d. Tình yêu tổ quốc thiết tha và ý chí giải phóng miền Nam

Không có kính rồi xe không có đèn

Không có mui xe thùng xe có xước

Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước

Chỉ cần trong xe có một trái tim.

Một lần nữa, sự tàn khốc của chiến tranh lại được Phạm Tiến Duật nhắc đến thông qua hình ảnh những chiếc xe chân thực, sinh động:

Nghệ thuật

Nội dung

Thủ pháp liệt kê “không kính, không đèn…”

Gợi lên hình ảnh những chiếc xe bị tàn phá, méo mó, biến dạng, qua đó phản ánh hiện thực chiến tranh khốc liệt

Nghệ thuật điệp ngữ “không có” kết hợp với thủ pháp đối lập

Đã nhấn mạnh dù chiếc xe không nguyên vẹn, nhưng chỉ cần có “một trái tim”, những chiếc xe ấy vẫn băng ra chiến trường giải phóng miền Nam.

Hình ảnh hoán dụ “trái tim”

Thể hiện lòng yêu nước thiết tha, căm thù giặc Mĩ sôi sục, ý chí kiên cường giải phóng miền Nam.

-> Trái tim yêu thương, trái tim cầm lái đã giúp người lính chiến thắng bom đạn của kẻ thù. Trái tim ấy đã trở thành nhãn tự của bài thơ và để lại cảm xúc sâu lắng trong lòng bạn đọc.

3. Đánh giá

Với việc:

- Lựa chọn chi tiết độc đáo, hình ảnh chân thực.

-  Ngôn ngữ giàu tính khẩu ngữ, nhịp điệu linh hoạt, giọng điệu ngang tàng, trẻ trung.

- Khắc họa hình ảnh độc đáo: những chiếc xe không kính.

- Qua đó làm nổi bật hình ảnh người chiến sĩ lái xe Trường Sơn …

III. Kết luận

- Với hình ảnh người chiến sĩ vận tải kiên cường, hùng dũng và đầy lạc quan, hóm hỉnh, “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” đã để lại những ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.

- Kết tinh đẹp nhất trong bài thơ ấy chính là tình đồng chí gắn bó và tình yêu Tổ quốc thiêng liêng.

Đăng nhận xét

Mới hơn Cũ hơn

Liên kết

Quảng cáo