Lạ
gì bỉ sắc, tư phong
Trời
xanh quen thói MÁ HỒNG đánh ghen
(Câu 5,6. mở đầu truyện Kiều)
“Phận
HỒNG NHAN có mong manh
Nửa
chừng xuân thoắt gãy cảnh thiên hương”
(Câu
65, 66. Vương Quan dẫn giải về Đạm Tiên)
“Phủ
phàng chi bấy hóa công
Ngày
xanh mòn mỏi, MÁ HỐNG phôi pha”
(Câu
85, 86. Kiều khóc Đạm Tiên)
Rằng:
"HỒNG NHAN tự nghìn xưa
Cái
điều BẠC MỆNH có chừa ai đâu".
(Câu
107, 108. Kiều trả lời Thuý Vân ở mộ Đạm Tiên)
“Tuồng
chi là giông hôi tanh
Thân
nghìn vàng để ô danh MÁ HỒNG”
(Câu
853, 854. Kiều nghĩ khi đã bị Mã Giám Sinh phá thân)
“SỐ
còn nặng nợ MÁ ĐÀO
Người
đà muốn quyết, trời nào đã cho”
(Câu
997, 998. Đạm Tiên nói với Kiều trong mơ)
“PHẬN
sao BẠC chẳng vừa thôi
Khăng
khăng buộc mãi lấy người HÁNG NHAN”
(Câu
1763, 1764. Kiều than thở khi ở nhà Hoạn bà)
Rằng:
“Nàng chút phận HỒNG NHAN
Gặp
cơn binh cách nhiễu nàn cũng thương”.
(Câu
2541, 2542. Hồ Tôn Hiến nói với Kiều)
“Bấy
lâu nghe tiếng MÁ ĐÀO
Mắt xanh chẳng để ai vào phải không”.
(Câu
2181, 2182. Từ Hải hỏi Kiều)
“Thuý
Kiều sắc sảo khôn ngoan
Vô
duyên là phận HÔNG NHAN đã đành”
(Câu
2659, 2660 Tam Hợp đạo cô nói với Giác Duyên)
“Nàng
đà gieo ngọc trẫm châu
Sống
Tiền Đường đó, ấy mồ HÔNG NHAN”
(Câu
2963, 2964. Kim và Vương được trả lời về Kiều).
“Còn
chi là cái HỒNG NHAN
Đã
xong thân thế, còn toan nỗi nào”,
(Câu
3101, 3102. Kiều nói với Kim Trọng)
“Canh
khuya bức gấm rũ thao
Dưới
đèn tỏ rạng, MÁ ĐÀO thêm xuân”.
(Câu
3141, 3142. Kim Kiều hội ngộ).
-----oOo-----
“Khúc
nhà tay lựa nên chương
Một
thiên BẠC MỆNH nghĩ càng não nhân”.
(Câu
33, 34. Khúc đàn của Kiều)
“Đau
đớn thay, phận đàn bà
Lời
rằng BẠC MỆNH cũng là lời chung”.
(Câu
83, 84. Kiều tỏ lời thương xót Đạm Tiên)
“Anh
hoa phát tiết ra ngoài
Ngàn
năm BẠC MỆNH một đời tài hoa”.
(Câu
415, 416. Kiều tâm sự với Kim Trọng)
“Dù
em nên vợ, nên chồng
Xót
người MỆNH BẠC, ắt lòng chẳng quên”
(Câu
737, 738. Kiều cậy Thuý Vân gá nghĩa với Kim Trọng)
“Sinh
rằng: “Thật có như lời
HỒNG
NHAN BẠC MỆNH, một người nào vay”.
(Câu
1095, 1096. Thức Sinh bào chữa cho Kiều).
“Tiểu
thư rằng: "Ý trong tờ
Rắp
đem MỆNH BẠC xin nhờ cửa Không”.
(Câu
1909, 1910. Hoạn Thư nói với Thức Sinh)
“Thưa
rằng: “BẠC MỆNH khúc này
Phổ
vào đàn ấy, những ngày còn thơ”.
(Câu
2575, 2576. Kiều đàn dưới trướng Hồ Tôn Hiến).
“Cung
cầm lựa những ngày xưa
Mà
gương BẠC MỆNH bây giờ là đây”.
(Câu
2577, 2578. Kiều đàn cho Hồ Tôn Hiến nghe).
HỒNG
NHAN, MÁ HỒNG, MÁ ĐÀO cùng một nghĩa để chỉ người phụ nữ có nhan sắc hơn đời.
MỆNH BẠC hay BẠC MỆNH là số phận mỏng manh, không được hưởng sự suông sẻ, hạnh phúc trong đời sống; thường gặp những điều bất trắc, khổ đau tột cùng...
Bạc
mệnh thường đi chung với hồng nhan và đã trở thành một thành ngữ thông tục. Nhà
thơ Tô Đông Pha đời Tông đã bảo “tự cổ hồng nhan đa bạc mệnh” (Từ xưa khách má
hồng thì phần nhiều là phận mỏng). Sách Tình sử cũng có câu “Tạo vật đố hồng
nhan”; nghĩa là tạo hóa hay ghen ghét người đàn bà đẹp.
Hồng
nhan mà để trở thành mệnh bạc thì không phải chí cần có sắc đẹp không thôi. Đẹp
hơn người đã đành, nhưng phải là người thông minh, tài hoa, mẫn tiệp, đa
tình... Nếu đẹp mà ngu, bất tài thì chả ai thèm nhìn đến; thế thì làm sao mang
lấy kiếp bạc mệnh được. Cái lý bạc mệnh của hồng nhan là do sự thông tuệ tài
tình nên mới gây thành sóng gió...
Theo
luật “Tài mệnh tương đố” (Tài và mệnh đố kỵ nhau, người đàn bà có được ưu điểm ở
phương diện này thì phải bí khuyết điểm ở phương diện khác (phong vu bỉ, sắc vu
thử). Trong lịch sử những người đẹp trên thê gian này xưa nay, không biết bao
nhiêu người sắc nước hương trời, tài hoa tuyệt diệu phải lâm vào cảnh bạc mệnh.
Thế cuộc đời của những khách hồng nhan bạc mệnh như thế nào? Chết non yểu. Sớm
góa bụa. Làm thân nàng hầu, lẽ mọn. Liễu ngõ hoa tưởng, thanh lâu kỹ viện, bèo
dạt hoa trôi...
Tư
sát chết thì có hai bà Nữ Anh và Nga Hoàng, vợ vua Thuấn; nàng Lục Châu ái thiếp
của đại phú thương Thạch Sùng. Uống thuốc độc chết thì có Vương Chiêu Quân, Triệu
Hợp Đức là Chiêu Nghi của Hán Thành Đế; Maryline Moonro nữ tài tử màn bạc Mỹ. Bị
giết chết có Dương Quý Phi của vua Đường Huyền Tông; Triệu Phi Yến chánh cung của
Hán Thành Đế; Yên Hậu vợ Tào Phi; Marie Antoinette hoàng hậu của vua Louis 16
nước Pháp. Chết vì sầu khổ triền miên thì có Tề Cẩm Vân, Hồng Hồng ca nữ, Vương
Ấu Ngọc kỹ nữ. Bèo dạt hoa trôi thì có Lâm Tứ Nương, Ngư Huyền Cơ, Ngọc Đường
Xuân. Làm thân tì thiếp thì có Điêu Thuyền đời Tam Quốc (một trong tứ đại mỹ
nhân của Trung Quốc), Vương Triều Vân, Hồng Tuyến Nữ. Dâm đăng lăng loàn thì có
Tề Văn Khương, Tây Thái hậu, Trương Lệ Hoa, Phan Kim Liên...
Các
điển tích sau đây cho chúng ta thấy rõ kiếp bạc mệnh của người hồng nhan:
1. Tề
Cẩm Vân, một kỹ nữ nhan sắc lại giỏi đàn hay thơ của kỹ viện giáo phường Kim
Lăng đời Đường, Cẩm Vân có thể đàm luận văn chương với khách văn mặc suốt ngày
không biết mệt.
Một
ngày kia, nàng gặp nho sĩ Phú Xuân và hai người cảm nhau vì sắc, trọng nhau vì
tài nên họ yêu nhau. Từ khi có Phú Xuân, Tề Cẩm Vân không còn thiết tiếp khách
nào khác. Sau đó không lâu, chẳng may Phú Xuân lâm cơn gia biến bị hạ ngục. Tề
Cẩm Vân bán hết tư trang của mình lây tiền nuôi Phú Xuân.
Về
sau, Phú Xuân bị giải đi nơi khác; Tề Cẩm Vân tha thiết
xin
được đi theo chàng. Tuy nhiên, Phú Xuân không nỡ để người yêu chịu liên lụy cái
cảnh đi đày của mình nên chàng khuyên nàng nên ở lại. Cẩm Vân năn nỉ cách mấy
thì Phú Xuân cũng vẫn khăng khăng từ chối. Người kỹ nữ chung tình ấy đành làm một
bài thơ tứ tuyệt để tiễn biệt người yêu:
“Một nhắp men say
vạn dặm tình
Có xuân nẫu ruột,
não lòng oanh.
Nguyện đem hàng lệ
làm mưa ấy,
Lưu giữ chàng, mai
ở lại thành".
Phú
Xuân bị đi đày, Tề Cẩm Vân ở lại. Từ đó chẳng những nàng không thèm trang điểm
mà còn để tóc rối bù và bôi lọ lên mặt, lại đóng chặt cửa không ra ngoài. Không
bao lâu nàng héo hon và chết trong cô quạnh...
2.
Thời Bảo Lịch nhà Đường, tại Kinh đô Tràng An xuất hiện một cô gái rất đẹp
nhưng nghèo hèn, ăn mặc rách rưới ôm đàn tì bà đi hát rong xin tiền độ nhật.
Không ai biết cô gái ây xuất thân từ đâu. Nàng mưu sinh bằng nghề hát rong
nhưng ai cho tiền hay không cho cũng được, chẳng bao giờ tỏ ý phiền trách ai.
Trong
đám khách văn mặc của kinh thành, có vị Tiến sĩ trẻ tên Vi Thanh để ý đến nàng.
Vi Thanh tìm cách làm quen với nàng nhưng lần nào cũng bị lãnh đạm, thờ ơ. Vị
Tiến sĩ hào hoa vẫn không nản mà càng cố công theo đuổi. Rồi một ngày kia chàng
được toại nguyện: hai người đã quen nhau, và chàng được biết nàng tên là Hồng Hồng.
Vi
Thanh mến giọng ca thiên phú của Hồng Hồng. Còn Hồng Hồng thì kính phục tài hoa
và sự đứng đắn của Vi Thanh nên dần dần cả hai trở thành đôi bạn thân. Với tài
văn chương lỗi lạc của mình, Vi Thanh sáng tác nhiều ca khúc cho Hồng Hồng
trình diễn, đưa nàng lên hàng ca nhi thượng thặng thời bấy giờ. Thế rồi hai người
cùng yêu nhau tha thiết. Nhưng Vi Thanh tiếc tài hoa của người yêu đang thời kỳ
phát triển nên chưa muốn lấy nàng làm vợ ngay. Chàng định để nàng phục vụ nghệ
thuật thêm một thời gian nữa rồi chung sống với nhau cũng không muộn. Phần Hồng
Hồng cũng muôn làm vợ Vi Thanh lắm, nhưng xét phận mình nên chưa dám hở môi.
Hồng
Hồng ngày càng nổi tiếng khắp kinh đô Tràng An. Và tiếng tăm nàng đã thấu đến
tai Hoàng Đế Bảo Lịch. Nhà vua cho mở một đại yến và cho đời Hồng Hồng vào cung
biểu diễn. Vị Hoàng đế trẻ tuổi và đa tình vừa trống thấy Hồng Hồng là đã say
mê nàng ngay. Thế là nhà vua ra lệnh cho nàng vào cung và phong cho nàng chức
Khúc nương để chăm nom các điệu hát trong cung. Lệnh của vua ban ra nào ai dám
cãi, nên đôi trai tài gái sắc Vi Thanh và Hồng Hồng đành phải xa nhau. Mỗi người
đành phải nén nỗi đau thương trong lòng mình...
Vào
cung, mặc dù được nhà vua yêu chiều quý trọng nhưng Hồng Hồng không thiết gì cả,
lúc nào cũng ủ rũ u sầu vì thương nhớ người yêu. Mấy tháng trời trôi qua mà vua
Bào Lịch vẫn không chạm được vào thân thể nàng. Tuy nhiên, nhà vua văn nhã này
không dùng quyền uy tôi thượng của một quân vương mà ép buộc nàng. Ông vẫn kiên
tâm chờ đợi...
Tháng
ngày sầu khổ héo hon nên Hồng Hồng lâm bệnh. Bao nhiêu thuốc thang nhà vua cho
đem đến, nàng đều không uống mà lẻn đổ đi. Rồi một ngày kia, sau một khúc ca
cho vua thường thức, Hồng Hồng gục chết khi tuổi đời chưa được nửa chừng xuân.
Hồng
Hồng chết, Vi Thanh từ quan và cất bước ngao du giang hồ...
-----oOo-----
3.
Vào thời Ngũ Đại, Trung Quốc loạn lạc khắp nơi. Bấy giờ có nàng Triệu Kinh
Nương là một giai nhân tuyệt sắc lại lắm tài hoa nên bị các anh hùng hào kiệt
tranh qua cướp lại nhiều lần. Sau cùng nàng được người anh hùng Triệu Khuông Dẫn
cứu thoát từ một nhà tù.
Trên
đường trở về nhà, giữa một hoang thôn, Triệu Kinh Nương ngỏ ý muôn làm vợ Triệu
Khuông Dẫn. Người anh hùng họ Triệu cười nói:
-
Nàng họ Triệu và ta cũng họ Triệu, ta xem nàng như một cô em gái nhỏ mà thôi.
Ta gặp nàng trong cảnh chìm nổi lênh đênh, động lòng trắc ẩn ra tay cứu nàng chớ
không phải ta ham muôn nhan sắc diễm lệ của nàng đâu.
Khi
về đến nhà, cha mẹ Triệu Kinh Nương cũng ngỏ ý gả nàng cho Triệu Khuông Dẫn để
đền ơn đáp nghĩa, nhưng chàng Triệu nhất quyết chối từ. Chàng chỉ lưu lại nhà
Triệu Kinh Nương mấy hôm rồi từ biệt ra đi.
Triệu
Khuông Dẫn đi rồi, Triệu Kinh Nương quá đau khổ vì tình yêu của mình bị hắt hủi.
Một tháng sau đó, Kinh Nương tự tử chết sau khi làm một bài thơ tứ tuyệt để lại
cho người anh hùng Triệu Khuông Dẫn:
“Thiên phó hồng
nhan bất ngộ thời
Thụ nhân lãng nhục,
bị nhân khi
Kim tiêu nhất tứ
thù công tử
Bí thử thanh danh
thiên hạ tri".
(Trời cho sắc hồng
nhan không đúng thời
Hết bị người làm
nhục lại bị người hắt hỉu
Đếm nay xin được
chết để tạ lòng công tử
Để tâm sự và thanh
danh cho mọi người biết)
Về
sau, khi Triệu Khuông Dẫn trở thành Tông Thái Tổ của nhà Tông, chợt nhớ đến
Kinh Nương, Hoàng đế truy phong nàng là “Trinh nghĩa phu nhân” và cho lập miếu
thờ tại địa phương.
-----oOo-----
4.
Nàng Triệu Viên Viên người đất Tô Châu cuối đời nhà Minh, vừa đẹp vừa giỏi cầm
kỳ thi họa. Đại thần Châu Bá Khuê mua nàng tiến dâng lên Sùng Trinh hoàng đế.
Nhưng có thầy tướng số bảo rằng nếu cho Triệu Viên Viên nhập cung thì sẽ có tai
họa cho Minh triều. Vì thê Sùng Trinh hoàng đế trả nàng cho Châu Bá Khuê để gửi
về nguyên quán.
Sau
đó Triệu Viên Viên được Đại Tướng Ngô Tam Quế cưới làm thiếp.
Năm
SùngTrinh thứ 70, Tướng quân Lý Tự Thành nổi loạn, đem binh vậy hãm kinh đô nhà
Minh. Sùng Trinh hoàng đế thắt cổ tự tử ở Môi Sơn. Lý Tự Thành tự lập làm vua,
xưng là Đại Thuận Hoàng đế. Vốn đã khao khát Trần Viên Viên từ lâu, bây giờ Lý
Tự Thành bắt nàng vào cung.
Đại
tướng Ngô Tam Quế biết Minh Triều đã sụp đổ, định kéo quân về đầu hàng Lý Tự
Thành. Nhưng khi biết Lý Tự Thành bắt người thiếp yêu của mình là Trần Viên
Viên sung vào cung, Ngô Tam Quế liền nổi cơn phẫn nộ, liền điều đình với Mãn
Thanh để liên quân đánh Lý Tự Thành.
Lý Tự
Thành thua, Trung Quốc bị đặt dưới sự thống trị của người Mãn Thanh. Ngô Tam Quế
trở thành một tên Hán gian chỉ vì cái kiếp hồng nhan bạc mệnh của Trần Viên
Viên vậy.
-----oOo-----
5.
Tô Đông Pha, một danh sĩ và là một vị quan lớn của Tông triều, vì bất đồng
chính kiến với Tể Tướng Vương An Thạch nên bị biếm đi Hàng Châu.
Lúc
sắp lên đường, nhà thơ được người bạn thân họ Tưởng đến tiễn biệt. Tô Đông Pha
sai người thiếp yêu là Xuân Nương thiết tiệc đãi bạn. Trong lúc uống rượu,
khách hỏi:
- Chẳng
hay quý nhân có đi theo ngài chăng?
Tô
Đông Pha đáp:
- Đường
xá xa xôi vạn dặm, có lẽ Xuân Nương theo không tiện. Tại hạ định cho nàng về với
song đường.
Khách
nghe thế, ngỏ ý đem con ngựa bạch của mình đổi lấy mỹ nhân. Tô Đông Pha thuận
ngay. Xuân Nương nghe thế bèn bước đến, sửa áo thưa rằng:
-
Thiếp trộm nghe, ngày xưa vua Tề Cảnh Công định chém người coi ngựa mà Án Tử
còn can ngăn. Đức Khổng Tử bị cháy chuồng ngựa, chỉ hỏi đến người chứ không hỏi
ngựa. Các điều ấy chứng tỏ người được quý hơn vật. Nay Học sĩ đem người đổi lấy
ngựa, vậy là học sĩ xem vật quý hơn người.
Đoạn,
nàng ứng khẩu đọc một bài từ:
“Làm người thì chớ
làm đàn bà
Mọi điều sướng khố,
quyền người ta
Nay mới biết người
còn kém vật
Oán ai, thôi sống
cũng bằng thừa.”
Rồi
Xuân Nương bước xuống thềm và đập đầu vào thân cây hòe tự tận. Tô Đông Pha hối
hận, thương tiếc vô cùng. Nhưng than ôi, Xuân Nương nhan sắc và tài hoa đâu còn
nữa...
-----oOo-----
6.
Tô Đông Pha, một lần khác bị đày đến Huệ Châu, ông ở cạnh nhà viên Đô giám họ
Ôn. Ôn Đô giám có một người con gái rất đẹp lại học giỏi, đã đến tuổi cặp kê
nhưng mắt xanh vẫn chưa lọt bóng hình ai.
Ôn nừ
vốn đã nghe tiếng và mến mộ Tô Đông Pha từ lâu, nên có dịp được người thơ ở gần
bên cạnh, nàng lấy làm thích lắm. Đến đêm, Ôn nử thường lẻn cha chạy sang vườn
nhà Tô Đông Pha, núp bên song cửa nghe người thơ ngâm vịnh.
Ôn
Đô giám biết chuyện, tỏ ý không bằng lòng thái độ của con gái. Nhưng Ôn nử thẳng
thắn nhận rằng mình đã thầm yêu thi nhân họ Tô và bằng lòng làm thiếp của nhà
thơ; mặc dù Tô Đông Pha lớn tuổi hơn nàng rất nhiều. Ôn Đô giám thấy con gái
cương quyết như vậy nên cũng đành chấp thuận và toan tìm người mối lái đánh tiếng
với nhà thơ.
Bất
ngờ Tô Đông Pha được triều tình tha tội và triệu về kinh. Ông vội vã lai kinh
nên ý định của Ôn Đô giám bất thành. Ôn nữ không được toại nguyện nên uất ức
thành bệnh, chẳng bao lâu sau nàng từ trần.
Về
sau Tô Đông Pha có trở lại Huệ Châu và biết được chuyện ấy. Ông tỏ ra thương cảm
vô cùng và làm một bài từ khóc người thiếu nữ đa tình kia. Tất cả con trai con
gái của vùng Huệ Châu đều thuộc bài từ ấy. Bài từ như sau:
“Chim hồng cô đơn
Trăng khuyết treo
ngọn ngô đồng
Tàn canh người vừa
tạm vắng
Bổng thấy lòng u hồn
lại qua
Lãng đặng như chim
hồng lẻ bóng.
Giật mình liền ngoảnh
đầu
Hận nào ai hiểu đặng
Bấy nhiêu cảnh
không chịu dừng
Tịch mịch bãi sông
lạnh vắng".
-----oOo-----
7.
Ngày xưa đã có nhiều khách má hồng phận bạc như thế. Còn ngày nay thì sao? Thời
nào và ở đâu, cái kiếp mệnh bạc vẫn luôn đeo đẳng lấy người hồng nhan.
Trong
thập niên 1930 ở tỉnh Quảng Đông Trung Quốc có nàng kỹ nữ Kim Kiều nổi danh tài
sắc. Tiếng tăm của Kim Kiều vang dội khắp nơi. Người ta chỉ cần nhớ đến hai tiếng
Kim Kiều chớ không cần biết tên họ thật của nàng là gì. Vừa có nhan sắc nhạn sa
cá lặn mà lại vừa đa tình nên ai trông thấy nàng cũng đâm ra mê mẩn ngay. Không
biết bao nhiêu trang phong lưu công tử, bao nhiêu đạt quan quý nhân thời bấy giờ
điên đào vì nàng. Họ sẵn sàng ném tiền qua cửa sổ để mua lấy những “cuộc vui suốt
sáng, trận cười thâu đêm” với nàng kỹ nữ tài hoa ấy.
Cuộc
đời của nàng Kim Kiều tưởng như luôn luôn được chiểu chuộng, thoả mãn trong cảnh
vàng son. Nào ngờ đâu một đêm kia, hỏa hoạn xảy ra thiêu rụi cả xóm yên hoa và
Kim Kiều bị chết cháy trong ngọn lửa vô tình, với tất cả tài sản của nàng.
Tin
Kim Kiều chết được loan truyền đi khắp Trung Hoa. Thật đúng là cái cảnh “nửa chừng
xuân thoắt gãy cành thiên hương”. Không biết bao nhiêu khách tài hoa phong lưu ở
khắp nơi đổ xô về Quảng Châu để thương hương tiếc ngọc. Người ta bới trong đông
tro tàn tìm lấy nắm xương của Kim Kiều đem chôn cất và xây cho nàng một ngôi mộ
thật khang trang.
Sau đó, các giới văn nghệ sĩ còn sáng tác kịch, bài ca nói về cuộc đời nàng để phổ biến trong dân chúng.
(Theo Trần Phương Hồ, Điển tích trong Truyện Kiều, NXB Đồng Nai, 1996)
________________
(1)
Tô Đông Pha tên Tô Thức tự Tử Chiêm, sinh ngày 19 tháng Chạp năm Bính Tý nhằm
năm Cảnh Hựu thứ ba đời vua Tống Thần Tông (dương lịch 1037). Ông là con trưởng
của một danh sĩ đương thời tên Tô Tuân, ở huyên Mi Sơn, tỉnh Tứ Xuyên.
Năm
1057 Tô Đông Pha đỗ Tiến sĩ, mới 22 tuổi. Hoạn lộ của họ Tô vô cùng thăng trầm,
bị đi đày nhiều hơn ở kinh đô.
Ngày
28-6-1101, Tô Đông Pha mất ở Thường Châu (đời vua Tống Huy Tông), thọ 64 tuổi.