TÓM TẮT
KIẾN THỨC CƠ BẢN VĂN BẢN
MÙA XUÂN
NHO NHỎ
(Thanh Hải)
I.
Khái quát
1. Tác
giả
- Quê ở Thừa Thiên –Huế.
- Hoạt động văn nghệ từ cuối những năm kháng chiến chống Pháp. Sự nghiệp thơ văn
gắn liền với hai cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc.
- Phong cách sáng tác: ngôn ngữ giàu hình ảnh, nhạc điệu, cảm xúc
chân thành, đằm thắm…
2. Tác
phẩm
- Thể thơ: 5 chữ
- Hoàn cảnh sáng tác: 11/1980, khi tác giả đang nằm trên giường bệnh.
Tháng 12/1980 ông qua đời.
- Ý nghĩa nhan đề:
+ Gợi về mùa xuân của đất trời, của thiên nhiên vũ trụ.
+ Tầng nghĩa tượng trưng: khát vọng, lí tưởng muốn cống hiến tất cả
điều đẹp đẽ nhất cho cuộc đời, quê hương, đất nước của nhà thơ.
+ Tính từ “nho nhỏ” đã cụ thể hóa, hữu hình hóa mùa xuân và mang đến
nhiều tần ý nghĩa khác nhau cho bài thơ.
3. ND chính:
cảm xúc của nhà thơ trước vẻ đẹp của vạn vật vào mùa xuân, cùng với
đó là ước nguyện chân thành của nhà thơ muốn cống hiến cho đời, cho quê hương.
II. Nội dung
1. Cảm xúc của nhà thơ trước mùa xuân thiên
nhiên – khổ 1. Khung cảnh thiên nhiên trong trẻo và tràn đầy sức sống của mùa
xuân.
Mọc giữa
dòng sông xanh
Một
bông hoa tím biếc
+ “Mọc”:
Động từ “mọc” được đảo lên đầu câu nhằm nhấn mạnh sức sống mạnh mẽ của mùa xuân.
+ Cảnh
vật nổi bật với thị giác.
+ Cảnh vật với màu sắc tươi mới, mát mẻ:
dòng sông xanh, bông hoa tím biếc. Trong hội họa, hai màu sắc này được xem là tông màu
lạnh, màu của sự tươi sáng, của hi vọng. 5 năm sau ngày giải phóng, còn gì vui
hơn khi đất nước thanh bình.
+
Ý nghĩa của hai gam màu: đó là màu xanh của hi vọng, màu xanh của đất trời thay áo
mới, màu xanh của thanh bình. Một gam màu tươi sáng hiện lên trên nền xanh long
lanh ấy. Cái màu tím đặc trưng xứ Huế trở nên thơ mộng hơn bao giờ hết. Màu tím
của bông hoa hay màu tím áo dài của cô gái Huế xinh xắn dễ thương?
-
Ơi con chim chiền chiện
Hót
chi mà vang trời
+
Vận dụng cả thính giác để nhận ra mùa xuân vui tươi:
tiếng chim hót rộn vang.
+
Từ “ơi”, “chi”: chất ngọt ngào, thân
thương, gần gũi.
-
Từng giọt long lanh rơi
Tôi
đưa tay tôi hứng
+ “Giọt”:
sương – giọt sự sống. Nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, tiếng hót của
chim chiền chiện lại rơi thành từng giọt âm thanh trong trẻo. Thanh Hải quá tài
ba, đã vẽ nên một bức tranh “trong động có tĩnh, trong tĩnh có động”, biến cái
hữu hình trở thành cái vô hình mà lại hữu ý trong tâm hồn người đọc.
+
Đại từ “tôi” + động từ “hứng”: nâng
niu, như trân quý. Nếu không phải
là cái đẹp tao nhã của mùa xuân, của sự sống thì còn là gì? Tâm hồn
thi sĩ đã hòa nhập vào thiên nhiên để cảm nhận được sức sống đang trỗi dậy.
2. Cảm xúc của
nhà thơ về mùa xuân đất nước – 2 khổ tiếp: Mùa xuân được tạo nên từ máu và mồ hôi lao động của nhân
dân đã góp phần tô điểm cho vẻ đẹp tươi mới của đất nước. Đó chắc chắc sẽ là một
mùa xuân vĩnh hằng.
Mùa
xuân người cầm sung
Lộc
giắt đầy trên lưng
Mùa
xuân người ra đồng
Lộc
trải dài nương mạ
Tất
cả như hối hả
Tất
cả như xôn xao…
+ Mùa xuân của đất nước được gây dựng nên từ 2 lực lượng chính của đất nước. Hai hình ảnh hoán dụ “người cầm
súng” là chỉ lực lượng bộ đội chiến đấu, “người ra đồng” để chỉ người nông dân
vất vả ngoài đồng xa. Hai hình ảnh ấy còn là biểu trưng cho 2 nhiệm vụ chính của đất nước ta: chiến đấu và lao động
xây dựng đất nước trong hoàn cảnh đất nước mới thống nhất, phải đối mặt với nhiều
khó khăn và thử thách phía trước.
+
Phép đối xứng
tương đồng giữa hai câu thơ trên cùng với phép điệp từ (mùa xuân, lộc,
tất cả cùng với phép điệp cú pháp) làm cho hình ảnh thơ như hòa quyện vào nhau,
âm điệu thơ trở nên giàu nhạc tính, mạch thơ hối hả. Điệp từ “tất cả” + từ láy “hối hả”, “xôn xao”: nhịp thơ trở nên nhanh, gấp, gợi một nhịp
sống sôi động, hối hả, khẩn trương trong nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ đất nước.
+
Từ “lộc” + “mùa xuân”: quang cảnh tươi đẹp của mùa xuân với những chòi non đâm
lộc; gợi ra thành quả trong công cuộc
xây dựng và bảo vệ đất nước.
] Giọng thơ đan xen
chất nhạc, Thanh Hải đã phác họa được một bức tranh có cả cái hồn của 4 mùa xứ
Huế. Nó đầy đủ cả màu sắc, hình ảnh, âm thanh, từ đó bộc lộ được niềm say sưa,
ngây ngất của tác giả trước thiên nhiên đất trời.
- Mùa xuân của đất nước
hiện lên với vẻ đẹp, sức sống mãnh liệt qua mấy ngàn năm lịch sử:
Đất nước bốn
nghìn năm
Vất vả và
gian lao
Đất nước như
vì sao
Cứ đi lên
phía trước.
+
4000 năm: chặng đường lịch sử đầy gian lao của nước Việt. Nòi giống Lạc Hồng trải qua 4000 dựng nước, dùng máu
xương bảo vệ và xây nên nền văn hóa mang đậm bản sắc dân tộc. Sự cần cù lao động
đã đưa đất nước ngày càng đi lên, tạo nên sức sống bền vững cho dân tộc. Cho
nên, dù vất vả, gian lao, tổ quốc vẫn băng mình vươn lên phía trước như một vì
sao sáng.
+
“Đất nước như vì sao” là một hình ảnh so sánh tuyệt đẹp và đầy ý nghĩa. Khi vì sao tổ quốc tỏa
sáng, tất cả dân tộc Việt Nam ngẩng cao đầu vươn xa với bạn bè anh em quốc tế.
Chúng ta tự hào giới thiệu về đất nước con Rồng cháu Tiên. Tổ quốc ra dù trải
qua bao thắng trầm biến đổi bởi chiến tranh, bom đạn “một ngàn năm nô lệ giặc
Tàu, một trăm năm đô hộ giặc Tây, hai mươi năm nội chiến từng ngày”, dù trải
qua thiên tai địch họa nhưng vẫn ngời sáng lung linh. Đây chính là sức sống trường
tồn. Câu thơ thể hiện niềm lạc quan, tự hào của nhà thơ khi mình chính là người
Việt Nam.
+
Cấu trúc song hành: đất nước 4000 năm – đất nước như vì sao: khẳng định sự chuyển
mình vươn lên và sự trường tồn của đất nước.
] Giọng thơ tha thiết,
sôi nổi, vừa trang trọng đã gói trọn niềm yêu mến tự hào, tư tưởng của Thanh Hải
vào đất nước.
3. Khát
vọng và lí tưởng sống cao đẹp của tác giả - 3 khổ cuối: Trước cảnh mùa xuân tươi đẹp và tự hào về lịch sử dân tộc, nhà thơ đã nói
lên những suy nghĩ và ước nguyện của mình, muốn được “hóa nắm tro tàn bón đất
xanh cây”:
Ta làm
con chim hót
Ta làm một
cành hoa
Ta nhập vào
hòa ca
Một nốt trầm
xao xuyến.
+
Đại từ “ta”: thể hiện ước nguyện của mình, không còn là
cái tôi trữ tình nữa mà đã hóa thành cái ta chung. Cái ta ấy đại diện cho hơn
90 triệu người dân Việt ước nguyện hóa thành vạn vật hữu ích cho quê hương.
+
Điệp cấu trúc: “ta làm”, “ta nhập”: một
lời thủ thỉ tâm tình về ước nguyện hóa thân, hiến dâng cho quê hương, đất nước
của nhà thơ: nhấn mạnh khát vọng hòa nhập cuộc sống riêng vào sự sống chung của đất nước. Những
hình ảnh mang tính ẩn dụ (con chim hót, một cành hoa, một nốt trầm) là những sự
vật tượng trưng cho cái đẹp, niềm vui và tài trí của đất nước và con người Việt
Nam. Cuộc sống chỉ có ý nghĩa khi ta biết sẻ chia. Tố Hữu cũng đã từng nói: “ Nếu
là con chim, chiếc lá
Thì con chim phải hót, chiếc
lá phải xanh
Lẽ
nào vay mà không có trả
Sống
là cho đâu chỉ nhận riêng mình”.
Đúng thế, đó là khát vọng tốt đẹp! Khát vọng đẹp đẽ ấy được
thể hiện bằng những hình ảnh cũng thật đẹp.
-
Với Thanh Hải, hóa thân là để hiến dâng, để phục vụ cho một mục đích cao cả:
Một
mùa xuân nho nhỏ
Lặng
lẽ dâng cho đời
Dù
là tuổi hai mươi
Dù
là khi tóc bạc.
+ Hình ảnh “mùa xuân nho nhỏ” mang nhiều tầng ý nghĩa. Đó là mùa xuân của thiên
nhiên, của đất trời. Đó cũng là mùa xuân của đất nước đang chuyển mình vươn lên sau những tháng ngày vất vả và
gian lao. Và đó còn là mùa xuân của vận
mệnh con người. Với Thanh Hải, với 50 mùa xuân đã qua thì đó cũng chẳng là
gì so với mùa xuân vĩnh hằng của đất nước.
+
Từ láy “nho nhỏ”: ước muốn, khát vọng
khiêm tốn và giản dị.
+
Ông vui vẻ và hân hoan với khát vọng
mãnh liệt và cháy bỏng “lặng lẽ dâng cho đời”. Tính
từ “lặng lẽ”: vẻ đẹp tâm hồn, đó là sự âm thầm cống
hiến, không ồn ào, không khoa trương. Triết lí nhân sinh thật cao cả. Ai cũng phải cống hiến, ai cũng phải sống
thật có ích, đó chính là lẽ sống cao đẹp.
Đó chính là những anh thanh niên là những cô kĩ sư trong “lặng lẽ Sa Pa” của
Nguyễn Thành Long, là những người chiến sĩ lái xe trong tư thế hiên ngang của
“bài thơ tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật..Sống hết mình, sống phục vụ,
sống cống hiến cho đất nước ngày từ”tuổi 20” hay “khi tóc bạc” thì khát vọng đó
vẫn không hề thay đổi.
+
Điệp ngữ “dù là” + điệp cấu trúc + hình ảnh
tương phản “tuổi hai mươi” với “khi tóc bạc”: một lời hứa, lời tự nhủ với
chính mình, đồng thời khẳng định sự tồn tại bền vững của những khát vọng sống,
lí tưởng sống là cống hiến, là hi sinh.
] Thanh Hải đã nói lên hết ước nguyện của mình. Ông đã sống
như lời thơ ông tâm tình. Thơ hay là ở cảm xúc chân thành. Bài thơ được sáng
tác khi ông nằm trên giường bệnh. Nhưng người bệnh nhân ấy đã truyềnbiết bao cảm hứng lại cho bạn đọc,
cho thế hệ trẻ đi sau một niềm tin, một nghị lực và cả động lực to lớn.
- Bài thơ khép lại trong giai
điệu nhẹ nhàng, êm dịu của làn điệu dân ca trữ tình của xứ Huế:
Mùa
xuân ta xin hát
Câu Nam ai, Nam bình
Nước
non ngàn dặm mình
Nước
non ngàn dặm tình
Nhịp
phách tiền đất Huế.
+ Câu thơ “mùa xuân ta xin hát” đã diễn tả niềm khát khao,
bồi hồi của nhà thơ đối với quê hương yêu dấu buổi xuân về.
+ Câu “Nam ai”: câu hát buồn thương, da diết – gợi con đường đầy
hi sinh, gian khổ mà đất nước đã đi qua.
+ Câu “Nam bình”: khúc nhạc êm ái, dịu ngọt – gợi mùa xuân hiện tại
với cuộc sống thanh bình, ấm no.
+ “Nhịp phách tiền”: một loại nhạc cụ dân
tộc đệm nhịp cho lời ca
– nhạc cụ đặc trưng xuất hiện trong làn điệu dân ca Huế, trong nhã nhạc cung
đình Huế.
+ Điệp cấu trúc “nước non ngàn dặm…”: Quê hương đất nước trải ngàn dặm, chan chứa tình yêu thương.
] Tình yêu đời, yêu
cuộc sống trỗi dậy thật mãnh liệt, trở thành khúc hát tâm tình trong những dòng
thơ cuối. Khúc hát đó thật cảm động, cao quý và đáng trân trọng biết bao.
III.
Nghệ thuật
Với thể thơ 5 chữ,
bài thơ đã thể hiện giọng thơ lúc mạnh mẽ,
lúc tha thiết ngân vang. Ngôn từ
trong sáng, biểu cảm nhưng hàm súc đầy
tính biểu tượng đã thể hiện tài hoa của nhà thơ Thanh Hải. Qua đó một lần nữa
khẳng định ước nguyện cao cả của ông.
VI. Kết
Với tình yêu mùa xuân gắn liền với tình yêu đất nước, với
tài hoa của một người nghệ sĩ, Thanh Hải đã góp phần cho thơ ca dân tộc một bài
thơ xuân thật đẹp và ý nghĩa sâu sắc. Mỗi cuộc đời của mỗi con người hãy là “một
mùa xuân nho nhỏ”, như Tố Hữu cũng không ít lần nhắn gửi:
“Ôi
sống đẹp là thế nào hỡi bạn?
Sống
là cho đâu chỉ nhận riêng mình!”