I. TIỂU SỬ
Nguyễn Du tự
Tô Như, hiệu Thanh Hiên, biệt hiệu là Hồng Sơn Liệp hộ; nguyên quán làng Tiên Điền,
huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.
Nguyễn Du là
con thứ bảy của Hoàng Giáp Nguyễn Nghiễm (1708 - 1775), Tể tướng Lê triều, tước
Xuân Quận Công. Mẹ Nguyễn Du là bà trắc thất (vợ lẻ) thứ ba của Xuân Quận Công,
tên Trần Thị Tần (có sách ghi là Thắn), người xã Hoa Thiều, huyện Đông Ngàn, xứ
Kinh Bắc. Bà sinh năm 1740, nhỏ hơn Xuân Quận Công ba mươi hai tuổi. Ở với Xuân
Quận công, bà sinh được bốn người con trai là Trụ, Nễ, Du và Ức.
Theo một bản
gia phả của họ Nguyễn ở Tiên Điền thì Nguyễn Du sinh ngày 23 tháng 11 năm Ất
Dậu nhằm năm Cảnh Hưng thứ hai mươi sáu, dương lịch là ngày 3 tháng 1 năm 1766;
tại phường Bích Câu ở Thăng Long.
“Bao giờ
ngàn Hống hết cây
Sông Rum
hết nước, họ này hết quan”
Như vậy, Nguyễn Du sinh trường trong một gia đình đại quý tộc bậc nhất ở đấy. Theo cụ Lê Thước, dòng họ của Nguyễn Du xưa kia vốn là người ở trấn Sơn Nam. Dưới thời nhà Mạc, Nguyễn Thiến đỗ Trạng nguyên vào năm 1532, nhưng ông lại làm quan cho nhà Lê đến chức Thượng Thư Bộ Lại kiêm Đông Các Đại học sĩ, tước phong Thư Quận Công.
Khi Nguyễn
Thiến mất, hai người con của ông là Nguyễn Quyện và Nguyễn Miễn lại không làm
quan cho nhà Lê mà phục vụ nhà Mạc. Nhà Mạc hết, hai người quay lại với nhà Lê
nhưng âm mưu tạo phản. Việc bại lộ, cả nhà bị giết. Riêng một người con của
Nguyễn Miễn là Nguyễn Nhiệm trốn được, chạy vào xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân,
tỉnh Hà Tĩnh mai danh ẩn tích.
Thời bấy giờ
vùng Hà Tĩnh hãy còn hoang vu lắm, Nguyễn Nhiệm ra sức khai phá đất hoang để
lập nghiệp. Người địa phương gọi ông là Nam Dương công.
Nam Dương
công được coi là ông tổ của họ Nguyễn ở Tiên Điền. Từ đời ông đến đời Nguyễn
Nghiễm (thân phụ Nguyễn Du) là sáu đời.
Nguyễn
Nghiễm làm Tể tướng Lê triều nhưng vẫn thường cầm quân đi đánh giặc và lập được
nhiều công lớn. Có lần ông tiến quân vào Nam Hà đánh nhau với Nguyễn Nhạc (Chúa
Tây Sơn).
Nguyễn
Nghiễm có người anh tên Nguyễn Huệ (không phải Nguyễn Huệ Tây Sơn) đỗ tiến sĩ,
làm quan đồng triều với ông. Con trai lớn của Nguyễn Nghiễm là Nguyễn Khản,
cũng đỗ tiến sĩ và làm quan đồng triều. Nguyễn Khản làm Lại Bộ Thượng Thư sung
chức Tham Tụng.
Người con
thứ hai của Nguyễn Nghiễm là Nguyễn Điều làm Trấn thủ Sơn Tây, tước Điều Nhạc
hầu.
Nguyên
Nghiễm mất ngày 17 tháng 11 năm Ất Mùi, dương lịch là ngày 7 tháng 1 năm 1776.
Ông có tám bà vợ và hai mươi mốt người con, cả trai lẫn gái.
Gia thế
Nguyễn Du không chỉ có những người làm quan to, mà lại còn giỏi văn học nữa:
- Nguyễn Quỳnh, ông nội của Nguyễn Du, là một nhà
triết học chuyên nghiên cứu Kinh Dịch.
- Nguyễn Nghiễm làm quan và là một Sử gia, một nhà
thơ.
- Nguyễn Khản rất giỏi thơ Nôm, thưởng đối vịnh với
Chúa Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm.
- Nguyễn Nễ (anh cùng mẹ với Nguyễn Du), Nguyễn Thiện và Nguyễn Hành
(cháu gọi Nguyễn Du bằng chú) đều là các nhà thơ có tiếng thời ấy.
III. CUỘC ĐỜI
* Thời thiếu niên và thanh niên: Nguyễn Du mồ côi cha năm 10 tuổi. Hai năm sau ông mất
mẹ (thân mẫu Nguyễn Du mất ngày 6 tháng 7 năm Mậu Tuất, dương lịch là ngày 27
tháng 8 năm 1778, lúc 39 tuổi).
Bốn anh em
Nguyễn Du chưa đến tuổi trường thành nên phải sống nhở vào sự đùm bọc của anh cả
(khác mẹ) là Nguyễn Khản, đang tại chức Tả Thị Lang Bộ Hình kiêm Hiệp trấn xứ
Sơn Tây.
Năm Canh Tý
1780, bắt đầu cuộc biến động của phủ Chúa Trịnh. Nguyên Khàn ủng hộ Trịnh Tông
nên bị cách chức và bị giam. Khi Trịnh Tông lên nắm quyền Chúa, Nguyễn Khàn
được phục chức. Nhưng sau đó loạn kiêu binh lại phá nhà Nguyên Khản và toan
giết ông. Nguyễn Khản phải trốn vào phủ Chúa, rồi cải trang lên Sơn Tây và sau
đó về quê Hà Tĩnh ở ẩn. Trong thời gian biến động này, Nguyễn Du vẫn còn đi học.
Năm 1783,
Nguyễn Du 18 tuổi, đi thi Hương ở trường thi Sơn Nam và đỗ Tam trường (Tú Tài).
Nhưng chẳng biết vì sao ông khổng tiếp tục đi thi nữa. Năm này ông kết hôn với
con gái của Đoàn Nguyễn Thục ở Sơn Nam.
Nguyễn Du
từng làm con nuôi của viên Chánh thủ hiệu họ Hà ở Thái Nguyên. Năm 1786, viên
Chánh thủ hiệu họ Hà mất, Nguyễn Du được kế tập giữ chức ấy.
Năm 1789,
vua Quang Trung nhà Tây Sơn kéo quân ra Bắc Hà đánh tan 20 vạn quân Thanh. Vua
Lê Chiêu Thống và đám quân tùy tùng bỏ nước chạy theo tàn quân Tôn Sĩ Nghị sang
Tàu. Nguyễn Du và anh là Nguyễn Nễ và em là Nguyễn Ức cũng toan chạy theo Lê
Chiêu Thống nhưng không kịp. Thế là Nguyễn Du từ biệt anh và em, trở về quê vợ
ở xã Hải An, huyện Quỳnh Côi, trấn Sơn Nam. Ít lâu sau ông về Hà Tĩnh.
Năm 1796,
Nguyễn Du tìm đường vào Gia Định để theo Nguyễn Phúc Ánh chống nhà Tây Sơn. Ông
bị viên trấn thủ đất Nghệ An của Tây Sơn là Nguyễn Thuận bắt giữ ba tháng.
Nguyễn Thuận là bạn thân của Nguyễn Nễ, lại cũng mến tài Nguyễn Du nên tha cho
ông. Được tha, Nguyễn Du trở về Tiên Điền và ở lại đó trong một thời gian lâu
dài. Bấy giờ sự nghiệp của họ Nguyễn ở Tiên Điền không còn gì nữa. Cơ ngơi của
Nguyễn Nghiễm để lại đã bị quân Tây Sơn phá sạch, vì một người anh khác mẹ của
Nguyễn Du là Nguyễn Quýnh chống Tây Sơn bị thất bại. Nguyễn Quýnh không chịu
đầu phục Tây Sơn nên bị giết chết.
Nguyễn Nễ đã
ra làm quan với Tây Sơn từ năm 1789, nhưng Nguyễn Du thì nhất định không. Thời
gian ở tại Tiên Điền, Nguyễn Du sống rất chật vật, thiếu thốn, thưởng đi săn và
đi câu. Nguyễn Du đã đặt chân khắp 99 ngọn núi của dãy Hồng Lĩnh, nên tự đặt
biệt hiệu cho mình là Hồng Sơn Liệp hộ.
* Làm
quan với triều Nguyễn: Mùa thu năm
1802, Nguyễn Phúc Ánh đã hoàn toàn làm chủ đất nước từ Nam ra Bắc, lên ngôi
Hoàng đế đặt niên hiệu là Gia Long.
Tháng 8 năm
ấy, Gia Long ngự giá Bắc Hà. Khi tới Nghệ An, vua nhà Nguyễn cho triệu Nguyễn
Du ra bệ kiến, rồi truyền đi theo hộ giá. Sau đó Nguyễn Du được bổ Tri huyện
Phù Dung. Đến tháng 11, ông được thăng Tri phủ Thường Tín. Năm sau, ông được cử
lên ải Nam Quan tiếp đón sứ thần Trung Hoa.
Năm Gia Long
thứ ba (1805), Nguyễn Du cáo bệnh từ quan. Nhưng chỉ một tháng sau ông được
triệu ra lãnh chức Đông Các điện Đại học sĩ, tước phong Du Đúc hầu.
Năm 1807,
Nguyễn Du được cử làm giám khảo trường thi Hương ở Hải Dương.
Năm 1808,
ông lại cáo quan về quê nghỉ tám tháng.
Năm 1809,
Nguyễn Du được bổ làm Cai Bạ Quảng Bình và ở chức liền bốn năm.
Năm 1812,
Nguyễn Du lại cáo quan lần nữa, về quê xây mộ cho anh là Nguyễn Nễ. Cuối năm ấy
có chỉ triệu vào kinh. Đến tháng 2 năm 1813, ông được thăng cần Chánh điện Đại
học sĩ và được cử cầm đầu Sứ bộ sang Trung Quốc.
Năm 1814,
Nguyễn Du về nước, được nghỉ sáu tháng. Sang năm 1815, ông được thăng Hữu Tham
Tri Bộ Lễ.
* Cuối đời:
Tháng 2 năm Canh Thìn (1820), vua Gia
Long băng hà, Hoàng tử Đàm lên nối ngôi hiệu là Minh Mệnh nguyên niên. Triều
đình chọn Nguyễn Du làm Chánh sứ sang Trung Quốc cầu phong, nhưng ông chưa kịp lên
đường thì lâm bệnh qua đời. Ông mất vào ngày 10 tháng 8 năm Canh Thìn, dương
lịch là ngày 15 tháng 9 năm 1820; thọ 56 tuổi. Bấy giờ trong nước đang xảy ra
chứng bệnh dịch xuất phát từ Gia Định và lan tràn ra tới Bắc Hà. Nguyễn Du bị
mắc bệnh ấy mà không chịu uống thuốc. Vợ con ở tận ngoài xứ không có điều kiện
vào kinh, những giờ phút cuối cùng của Nguyễn Du chỉ có kẻ tả hữu bên cạnh.
Sách Đại Nam chính biên liệt truyện chép: “Khi tiên sinh bệnh nặng, không
chịu uống thuốc. Lúc gần mất, sai người sờ tay chân xem còn nông hay lạnh. Người
nhà nói đã lạnh cả rồi. Tiên sinh nói: “Được”. Nói xong thì mất, không có một lời
trăn trối việc sau.”
Nguyễn Du
được chôn ở xã An Ninh, huyện Quàng Điền, tỉnh Thừa Thiên. Bốn năm sau, thi hài
ông mới được cải táng về Tiên Điền.
Nguyễn Du có
hai vợ và một thiếp, 12 con trai và 6 con gái. Người con trai lớn của ông tên
Nguyễn Tứ, có theo ông đi sứ sang Trung Quốc trước kia, về nước ít năm thì mất.
Người con thứ hai tên Nguyễn Ngũ, làm Tuần huyện dưới triều Minh Mệnh. Người
con thứ ba do bà thiếp sinh, tên là Nguyễn Thuyến. Gia phả họ Nguyễn nói Nguyễn
Thuyến "giỏi văn học" nhưng không thấy có tác phẩm để lại cho đời.
Còn các người con khác của Nguyễn Du không biết làm gì...
Nguyễn Du
làm quan cho Triều Nguyễn gần 20 năm, không có gì là trở ngại. Ông được thăng
chức nhanh và giữ các chức vụ tương đối quan trọng. Tuy nhiên, dường như Nguyễn
Du vẫn có điều gì bất như ý sâu sắc với Nguyễn triều. Sách Đại Nam Chính biên
liệt truyện viết: “Nguyễn Du là người ngạo nghễ, tự phụ, song bề ngoài tỏ vẻ
giữ gìn cung kính, mỗi lần vào chầu vua thì ra dáng sợ sệt như không biết nói
năng gì".
Có lần vua
Gia Long trách ông: “Nhà nước dùng người cứ kẻ hiền tài là dùng chứ không
phân biệt Nam Bắc. Ngươi với ta được ơn tri ngộ, làm quan đến bậc Á khanh, biết
việc gì thì phải nói ra cho hết chức trách của mình, sao lại cứ rụt rè, sợ hãi,
chỉ vâng vâng dạ dạ cho qua chuyện".
IV. SỰ
NGHIỆP
Nguyễn Du để
lại cho đời một văn nghiệp tuy không đồ sộ về số lượng, nhưng hoàn toàn có giá
trị cao về phẩm chất; nhất là tác phẩm “Đoạn trường tân thanh” tức truyện
Thuý Kiều, qụả là một kiệt tác văn học.
Phần quốc
âm có”
- Văn tế sống Trường lưu nhị nữ
- Đoạn trường tân thanh (tức truyện Thúy Kiều)
Phần Hán văn
có:
- Bắc hành tập lục.
Nguyễn Du chẳng những xứng đáng là một Đại tập thành của văn học phong kiến mà còn là một thi hào của dân tộc Việt Nam.