TỪ ĐỊA PHƯƠNG CHỈ ĐỊA HÌNH TRONG ĐỊA DANH NAM BỘ
PGS. TS LÊ TRUNG HOA
1. Nam Bộ có
đầy đủ địa hình như Bắc Bộ, Trung Bộ: núi, rừng, cao nguyên, đồng bằng, biển
đảo. Tuy nhiên, phần lớn nằm trên địa bàn đồng bằng với nhiều dòng chảy khác
nhau. Thực địa này được phản ảnh trong địa danh ở Nam Bộ.
2.1.Về địa thế, phương ngữ Nam Bộ cũng có những từ ngữ của ngôn ngữ toàn dân, như núi (núi Nhỏ ở Vũng Tàu), gò (Gò Công ở Tiền Giang), mô (Mô Súng ở thành phố Hồ Chí Minh), bàu (Bàu Trai ở Long An), đầm (Đầm Cùng ở Cà Mau), hồ (hồ Dầu Tiếng ở Tây Ninh), hố (Hố Nai ở Đồng Nai), gành (Gành Hào ở Cà Mau), đồng (Đồng Xoài ở Bình Phước), ao (ao Bà Om ở Trà Vinh),hòn (Hòn Đất ở Kiên Giang), cồn (Cồn Ngao ở Bến Tre), láng (Vàm Láng ở Tiền Giang), đìa (Đìa Phật ở Đồng Tháp), cù lao (Cù Lao Dung ở Sóc Trăng), hàn (Đá Hàn ở Cần Giờ, tp. HCM)…Bên cạnh những từ phổ thông trên, Nam Bộ còn hàng chục từ chỉ địa hình khác.
Bùng binh là
chỗ phình rộng giữa sông rạch, đôi khi có cù lao ở giữa, ghe thuyền có thể quay
đầu [3]. Đầu thế kỷ 20, từ bùng binh mới được dùng để chỉ nơi giao lộ trong
thành phố, như bùng binh Sài Gòn, bùng binh Ngã Bảy. Bùng Binh là rạch ở
quận 10 và quận 3, thành phố Hồ Chí Minh, từ Bộ tư lệnh thành phố đến rạch
Nhiêu Lộc, dài độ 500m. Đầu thế kỷ 21, rạch đã bị lấp, làm thành đường phố,
mang tên đường Rạch Bùng Binh. Bùng Binh cũng là rạch chảy xuyên
hương lộ 10, đến phường Phú Thứ, quận Cái Răng, thành phố Cần Thơ, dài 5km.
Búng là vùng
đất thuộc tỉnh Bình Dương. Dòng sông Sài Gòn chảy đến đây tạo thành một chỗ
xoáy sâu rất nguy hiểm đối với ghe thuyền. Chỗ đó gọi là búng, sau trở
thành tên vùng đất. Búng là “chỗ nước sâu làm ra một vùng” [3].
Bưng gốc
Khmer bâng, nghĩa là “vùng đất sâu và rộng ở giữa đồng”. Bưng Môn là địa
điểm ở thành phố Hồ Chí Minh; Môn là “cây môn nước”.
Đường Thét
là chợ ở huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp. Đường thét là “đường rất
thẳng”, người xưa thường nói thẳng thét “rất thẳng”.
Đường trâu
là “đường trâu thường đi tạo thành rạch”. Đường Trâu là rạch ở huyện
Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long.
Đường Xuồng
là kênh ở huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long. Đường xuồng là “dòng nước mà
các chiếc xuồng thường đi lại”.
Động là “cồn
cát”. Ba Động là hai địa điểm ở huyện Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh và xã Cần
Thạnh, huyện Cần Giờ, TP. HCM - nơi có di chỉ KCH thuộc văn hoá Óc Eo được khai
quật năm 1978 - và có nghĩa là “ba cồn (cát)”.
Eo Lói là
khúc sông nhỏ chảy từ Băng Cung ra Cổ Chiên, tỉnh Vĩnh Long. Eo lói là
“chỗ quanh gắt trên đường, trên sông, có hình cùi chõ”.
Gãnh là “chỗ
giồng đất xốp, vốn là bãi biển do phù sa bồi dần” [1]. Khu Vàm Gãnh là
nơi cư trú của ngư dân ven biển phía tây của tỉnh Kiên Giang, cạnh ngã ba sông.
Gãy là chợ
hiện nay ở huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp, nơi gặp nhau giữa 5 con sông và
kinh: Kháng Chiến, Tư Mới (tên cũ Quatre Bis), Dương Văn Dương (tên cũ
Lagrange), Phước Xuyên, và Đồng Tiến. Thời Pháp thuộc chỉ mới có hai con kinh
mang tên Pháp, chúng tạo thành một góc nhọn 30 độ. Gãy vì hai con kinh
nối tiếp nhau giống như một khúc cây gãy nên địa điểm này mang tên trên. Gãy
Cờ Đen là địa điểm có chợ Gãy, tỉnh Đồng Tháp. Gãy cờ đen vì tại đoạn kinh
gãy khúc có cắm một lá cờ đen khá cao làm mục tiêu (dân địa phương thường gọi
phong tiêu hay bông tiêu) để ngắm theo đó mà đào cho con kinh không lệch hướng
[14].
Giáp nước có
hai loại: 1. Nơi hai dòng nước từ hai nguồn khác hướng ở hai đầu chảy lại. 2.
Nơi hai dòng nước không cùng chiều gặp nhau, tạo thành vùng nước xoáy [7]. Ở
Nam Bộ có nhiều địa danh kiểu này: Cầu Giáp Nước ở huyện Đầm Dơi, tỉnh
Cà Mau; chợ Giáp Nước ở huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long; vùng Giáp
Nước là địa điểm ở phía đông, ngoài khơi TP. Vũng Tàu, nơi rất nguy hiểm
đối với tàu bè đi lại.
Ở Nam Bộ có khá nhiều địa danh mang thành tố Giồng:
ở thành phố Hồ Chí Minh có giồng Am, rạch Giồng Bầu, ngã ba Giồng, giồng Cá Vồ;
ở tỉnh Kiên Giang có huyện Giồng Riềng; ở Bến Tre có huyện Giồng Trôm… Giồng
là biến âm của Vồng, chỉ “dải đất phù sa nổi cao lên, thường là ở ven sông”
[2].
Lung gốc
Khmer Ăn Lông, nghĩa là “chỗ trũng quanh năm có nước đọng ở giữa đồng hoặc giữa
rừng”. Ở thành phố Hồ Chí Minh có rạch Lung. Ở Vĩnh Long có Lung Chim.
Ở Kiên Giang có Lung Sen. Ở Cà Mau có nhiều lung nhất: Lung Âm, Lung
Gạo, Lung Lá, Lung Nai, Lung Sậy, Lung Tràm…
Mỏ cày vốn
là tên một bộ phận của cái cày, từ tay nắm đến lưỡi cày. (Dictionaire Annamite
– Français của Génibrel dịch làmanche d’une charue “cán cày”). Mỏ cày hình
cong như chữ Z nên những vật có hình dáng tương tự thì gọi là mỏ cày, như sao
mỏ cày. Đoạn quốc lộ 1A chạy qua vùng phía bắc thị trấn Mộ Đức của tỉnh Quảng
Ngãi cong như cái mỏ cày nên vùng đất hai bên quốc lộ 1A này mang tên Mỏ Cày.
Mỏ Cày cũng là huyện của tỉnh Bến Tre vì đoạn sông Hàm Luông ở chỗ này
cũng có hình cong như cái mỏ cày. Sách chữ Hán dịch là Lê Đầu giang “sông đầu
cái cày”.
Ngọn Én là
dòng nước nhỏ ở quận 9, thành phố Hồ Chí Minh. Rạch Ngọn là vùng đất ở
huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre. Ngọn gốc thuần Việt, nghĩa là “dòng nước
nhỏ ở đầu sông rạch lớn”. Ngọn Dừa là “dòng nước nhỏ ở đầu sông có nhiều
cá dừa – một loại cá giống cá soát nhưng lớn xác và ít ăn tạp hơn”, ở huyện Tam
Bình, tỉnh Vĩnh Long [7].
Nổng là
“gò”. Nổng Kè là khu vực ở gần sông Trèm Trẹm, tỉnh Cà Mau, là gò có
nhiều cây kè, một loại cây giống như thốt nốt, thân chắc, thường dùng làm cột
nhà. Ở xã Hồ Thị Kỷ, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau có hai con lộ mang tên Nổng
Kè Lớn, Nổng Kè Nhỏ.
Ô là “vũng,
bàu”. Ô Môn là quận của thành phố Cần Thơ (Môn là “cây môn nước”). Ô
Cấp là tên cũ của Vũng Tàu (Cấp là từ gốc Pháp cap “mũi đất” – Cap Saint
Jacques “mũi Thánh Jacques”). Ô Ma là tên một khu trại lính ở thành phố
Sài Gòn (Ma bắt nguồn từ tiếng Pháp mare “ao” – Camp des Mares “trại lính nơi
có nhiều ao”).
Sống Trâu là
cái tắt ở huyện Cần Giờ, TP. HCM, dài độ 3.500m. Sống trâu là thế
đất/cát có nhiều đường dọc nổi lên như sống lưng con trâu.
Trấp gốc
Khmer Pangtrap, là chỗ trũng, ngập nước, nhỏ hơn bưng. Trấp Bèo là kinh
ở xã Phú Cường, huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang. Trấp bèo vừa gốc Khmer
vừa gốc thuần Việt. Trấp bèo có lẽ trước đây là vùng trũng có nhiều bèo
[11].
Ụ là chỗ sâu
trên một dòng sông và ăn sâu vào đất liền để ghe thuyền đậu lại, và bờ sông ở
đây lài lài để dễ kéo thuyền lên sửa. Ụ là rạch ở giữa Giang Thành và
Chiêu Anh Các, thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang. Ụ Cây là rạch làm ranh
giới hai phường 10 và 11, quận 8, nối kinh Tàu Hủ với kinh Đôi, tp. HCM, dài độ
1.200m. Ụ Cây là đống cây ở gần u, chở từ Tây Ninh, Bình Phước về để sản
xuất thành phẩm. Ụ Ghe là bến ở làng Bình Phú, nay thuộc phường Tam Phú,
quận Thủ Đức, tp. HCM.
Vàm là rạch
ở phường Thạnh Lộc, quận 12, tp. HCM. Vàm gốc Khmer piêm, nghĩa là “ngã ba
sông, rạch”.
Xáng gốc
Pháp chaland, thường gọi là chiếc sà-lan, trên đó người ta đặt cái máy đào
kênh, vét bùn. Kinh xáng là con kinh do xáng đào. Ở Nam Bộ có nhiều con
kinh đào mang tên này [5]. Kinh Xáng chảy qua hai xã Lê Minh Xuân và Tân
Nhựt, huyện Bình Chánh, TP. HCM, nối kinh Ngang với sông Chợ Đệm, dài độ
7.000m, được đào dưới thời Pháp thuộc.
2.2. Về tên các dòng chảy, ở Nam Bộ cũng dùng những từ phổ thông ở Bắc Bộ và
Trung Bộ, như sông (sông Đồng Nai), suối (xã Suối Đá ở Tây Ninh), mương (rạch
Mương Chuối ở TP. HCM), kinh/kênh (kinh Bảy Ngàn ở Hậu Giang)… Bên cạnh những
từ toàn dân đó, Nam Bộ còn dung hàng chục từ mang tính địa phương rõ rệt.
Cái là từ
chỉ các dòng chảy. Ở Nam Bộ có độ 250 địa danh mang thành tố này ở trước, trong
đó có độ 200 địa danh chỉ các dòng nước. Yếu tố đứng sau có thể chia làm 6
nhóm: 1. chỉ người; 2. chỉ vị trí; 3. chỉ tính chất; 4. chỉ vật thể; 5. chỉ con
vật; 6. chỉ cây cối.
Yếu tố sau chỉ người có 2 địa danh.
Cái Tàu là
rạch chảy qua vùng có nhiều người Hoa. Cái Tàu là sông chảy từ tỉnh Hậu
Giang qua các tỉnh Bạc Liêu, Kiên Giang rồi đổ vào sông Cái Lớn, dài
43km.
Cái Vồn là
rạch đổ ra sông Hậu. Tên phiên dịch sang chữ Hán là Bồn Giang. Cái Vồn
còn là thị trấn, huyện lỵ huyện Bình Minh, tỉnh Vĩnh Long. Cái Vồn nửa
thuần Việt nửa Khmer. Người Khmer gọi Srôk Tà Von “xứ ông Von” [13].
Tiếp theo, yếu tố đứng sau có thể là vị trí.
Cái bát là
“sông nhánh bên phải”. Cái Bát là chi lưu sông chính ở hạt Tây Ninh xưa
[3]. Cái Bát còn là sông ở xã Lợi An, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau.
Còn cái cạy là “sông nhánh bên trái. Cái Cạy là chi lưu sông chính ở hạt
Tây Ninh xưa [3].
Kế đến, thành tố sau có thể chỉ tính chất.
Cái bé là
“sông/rạch/kinh nhỏ”; cái lớn là “sông/rạch lớn”. Cái Bé và Cái
Lớn là hai sông chảy qua hai tỉnh Hậu Giang và Kiên Giang. Cái Lớn
còn là sông xuất phát từ cửa Ông Trang chảy ra cửa Bồ Đề, tỉnh Cà Mau.
Cái Ngay là
kinh nối rạch Cái Ngay với sông Cái Lớn, tỉnh Cà Mau, Cái ngay là
“kinh thẳng”. Cái Quanh là sông ở huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng. Cái
quanh là “con sông quanh co nguy hiểm” [8].
Cái tắc có
dạng gốc cái tắt, là “rạch để đi tắt từ nơi này đến nơi khác”. Cái Tắc
là rạch ở huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang. Cái xép là “rạch nhỏ”. Cái
Xép là xóm nhỏ ở xã Viên An, huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau. vì xóm ở cạnh
rạch này.
Một số yếu tố đứng sau là các vật thể tại chỗ.
Cái Bè là
huyện của tỉnh Tiền Giang. Địa danh này ra đời đầu thế kỷ 18. Cái bè, vì tại
rạch này, có nhiều vựa cau khô, trầu rang hoặc vỏ cây dà, cây đước được chở
bằng bè tre sang Campuchia bán, sau trở thành địa danh hành chính.
Cái cát là
“rạch cát”. Người Khmer cũng gọi Piêm Prêk Ksách “vàm rạch cát” [13]. Cái
Cát là cửa sông ở tỉnh Vĩnh Long xưa.
Cái Cối là
rạch nằm bên tả ngạn chảy ra sông Bến Tre, nay thuộc xã Mỹ Thạnh An, thị xã Bến
Tre. Người Khmer trước đây gọi là Prêk Thbal “rạch cối xay” [13]. Cái cối vì bên bờ rạch có xóm chuyên đóng cối
xay lúa.
Cái Muối là
sông ở tỉnh Bến Tre xưa. Cái muối là “rạch muối”. Người Khmer cũng gọi
Prêk Ambil “rạch muối” [13].
Cái Răng là
rạch ở xã Thanh Điền, huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh. Cái Răng còn là quận
của tp. Cần Thơ. Cái vẫn là “rạch”; Răng: có lẽ do Kran, từ Khmer, nghĩa là
“cái cà ràng” – loại “bếp lò làm bằng đất nung có đáy rộng ra phía trước để làm
chỗ nướng thức ăn, đặt nồi” [2].
Một số thành tố sau là tên các con vật.
Cái Cá là là
rạch ở xã Quới Điền, huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre. Cái cá là “rạch cá”
vì dưới rạch này trước đây có nhiều cá sấu.
Cái chồn là
“rạch chồn”. Cái Chồn là rạch ở huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang.
Cái nai là
“rạch nai”. Cái Nai là rạch ở huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang.
Cái Tôm là
rạch ở quận Ô Môn, TP. Cần Thơ. Cái tôm là “rạch tôm”.
Sau cùng, đứng phía sau Cái là tên cây cỏ.
Cái Cui là
khu cảng ở TP. Cần Thơ, dài 5km. Cái cui là “rạch cây cui”, một loại cây
to, lá đơn một phiến cứng. Cây cui còn có tên khác là huỳnh long.
Cái da là
“rạch cây da”. Cái Da là rạch ở TP. Cần Thơ.
Cái Dầu là
thị trấn, huyện lỵ huyện Châu Phú, tỉnh An Giang. Cái dầu là “rạch cây
dầu”. Người Khmer cũng gọi như thếSrôk Chơ Tál “rạch cây dầu” [13].
Cái Mít là
rạch ở xã Thạnh Phú Đông, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre. Cái mít là “rạch
mít”, vì Gia Định thành thông chí và Đại Nam nhất thống chí đều gọi rạch này là
Ba La giang, mà ba la là “cây mít”.
Cái nhum là
“rạch có nhiều cây nhum mọc hai bên”. Nhum là loại cây giống cọ nhưng
lớn, có nhiều gai. Cái Nhum là huyện cũ của tỉnh Cửu Long. Năm 1977,
nhập một phần với các huyện Châu Thành Tây, Tam Bình thành huyện Long Hồ, tỉnh
Vĩnh Long. Cái Nhum còn là thị trấn, huyện lỵ của huyện Mang Thít, tỉnh
Vĩnh Long. Cái Nhum cũng là rạch ở huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang.
Cái Sơn là
rạch ở TP. Cần Thơ. Cái sơn là “rạch cây sơn”.
Cái Trầu là
rạch ở miền Tây Nam Bộ. Cái trầu là “rạch trầu”. Người Khmer cũng gọi
thế Srôk Prêk Mlu “xứ rạch trầu” [13].
Lươn hay con
lươn là dòng nước nhỏ mà dài như hình con lươn. Rỏng Lươn là rãnh
khuyết sâu, nhỏ và dài ở quận 12, TP. HCM. Con Lươn Quyền là rạch nhỏ ở
huyện Bình Chánh, TP. HCM.
Cổ là từ gốc
Khmer Koh, nghĩa là “đảo, cồn”. Cổ Công / Cổ Cong là đảo nhỏ ngoài khơi
vịnh Thái Lan, tây Nam Bộ. Cổ Tron là đảo nhỏ thuộc quần đảo Nam Du,
huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang.
Cổ Cò là tên
hai con rạch ở TP. HCM và tỉnh Tiền Giang. Cổ cò là “cổ con cò” vì đoạn
giữa sông tóp lại như cổ con cò. Cổ Cò còn là con sông, địa danh thuộc xã Tham Đôn, huyện Mỹ Xuyên,
Sóc Trăng
Cổ hũ là
khúc sông rộng mà có một đoạn tóp lại như cổ cái hũ. Cổ Hũ là dạng gốc
của một con kinh ở TP. HCM, bị nói chệch thành Tàu Hủ.
Cổ lịch là
dòng nước nhỏ và cong giống cổ con lịch [3] – cùng loại với lươn. Ở huyện Cái
Bè, tỉnh Tiền Giang có rạch và cầu Cổ Lịch.
Hóc là dạng
cổ của hói, chỉ cái xẻo / xẽo, một dòng nước nhỏ. Ở TP. HCM có Hóc Môn
(môn ở đây là cây môn nước), Hóc Hươu (nơi hươu trước đây thường xuống
uống nước). Hóc Bà Tó (Tó có lẽ tên người Khmer) là rạch nhỏ ở giữa rừng
U Minh, tỉnh Cà Mau, ít người lui tới; từ đó từ tổ hóc Bà Tó chỉ nơi xa xôi,
vắng vẻ.
Lòng là từ
phổ thông, nhưng ở Nam Bộ, nó còn chỉ dòng sông. Ở Cần Giờ, TP. HCM, có Lòng
Giằng Xay là rạch có cây giằng xay, một loại gỗ tạp, dùng làm thuốc dân
tộc. Lòng còn kết hợp với tàu để chỉ lòng sông có hình dáng của lòng
chiếc tàu. Sông Lòng Tàu ở TP. HCM là tên gọi có lẽ là duy nhất ở Nam
Bộ.
Lòng Ống là
sông ở huyện Bình Minh, tỉnh Vĩnh Long. Lòng Ống là dòng nước ở giữa sâu
xuống.
Ngả là nhánh
sông. Nhánh sông bên phía tay mặt gọi là ngả bát; nhánh sông bên phía tay trái
gọi là ngả cạy. Ở TP. HCM, Hậu Giang, Tây Ninh…đều có các địa danh Ngả Bát,
Ngả Cạy. Ở Hậu Giang có thị xã Ngã Bảy
Rạch là dòng
nước tự nhiên, nhỏ hơn sông. Ở Trung Bộ và Bắc Bộ hoàn toàn vắng mặt từ này.
Còn ở Nam Bộ, nó hết sức phổ biến và các nhà nghiên cứu đếu nhất trí là nó có
nguồn gốc Khmer prêk. Các địa danh Rạch Giá (giá là loại “cây bụi nhỏ,
có nhiều mủ trắng độc, ăn da” [2]); Rạch Dừa là phường ở tp. Vũng Tàu; cầu
Rạch Miễu nối hai tỉnh Tiền Giang và Bến Tre.
Rỏng là rạch
ở huyện Hóc Môn, TP. HCM. Rỏng là “đường nước tự nhiên, khuyết sâu
xuống, nhỏ hơn rạch, ngả” [4].
Tắt ban đầu
đứng sau các danh từ chỉ cách đi băng qua một chỗ nào đó để rút ngắn lộ trình,
như sông tắt, rạch tắt, ngả tắt, cái tắt… Sau đó, thường bị nói gọn là tắt, rồi
bị viết sai thành tắc. Tắc Cậu là kinh ở huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang. Tắc
Cậu còn là bến cảng ở xã Vĩnh An, huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang. Tắc
Cậu có dạng gốc là Tắt Cậu, nghĩa là con kinh (và bến cảng) chảytắt qua gần
miếu Cậu. Miếu Cậu bắt nguồn từ tín ngưỡng thờ Thuỷ Long thần nữ. Tắc
Ráng là ấp của phường Rạch Sỏi, tp. Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang. Tắc Ráng
có âm gốc là Tắt Ráng, nghĩa là “dòng nước để đi tắt từ nơi này đến nơi
khác, hai bên có nhiều cỏ ráng”. Tại nơi đây, năm 1957, ông Dương Văn Năm là
người đầu tiên sản xuất ra loại xuồng nhỏ, chạy rất nhanh, sau người ta lấy tên
nơi sản xuất đặt tên cho sản phẩm theo phương thức hoán dụ: chiếc tắc ráng.
Xẻo là “lạch
con”. Ở Nam Bộ có khá nhiều địa danh mang từ này: Xẻo Gừa (gừa là loại
cây thân lớn, mọc ven bờ nước, có nhiều rễ phụ), Xẻo
Me (Vĩnh Châu) ở Sóc Trăng; Xẻo
Nga ở Vĩnh Long (nga là tên gọi tắt của nga truật, một loại “củ ngải, vị thuốc
trị bệnh huyết ở phần khí, vị cay và đắng, khí âm” [5]; Xẻo Quýt (quýt
là tên cây) ở Đồng Tháp; Xẻo Sầm là xóm ở xã Ninh Thạnh Lợi, huyện Hồng
Dân, tỉnh Bạc Liêu. Sầm có nhiều loại. Chưa biết Sầm ở đây là loại sầm
gì. Loại sầm thường dùng làm thuốc là sầm tán, cao 1 - 2m, rễ trị bệnh kinh
nguyệt quá nhiều, lá trị lậu, bạch huyết, đau mắt [10].
Xép là bàu ở
huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long. Xép là “đàng nước nhỏ mà chẹt” hoặc
“khu vực của hai con rạch chạy bao quanh hình vòng cung, một con rạch cắt ngang”
[7].
3. Qua các tên gọi trên, ta thấy các từ chỉ địa hình
có quan hệ đến sông nước ở Nam Bộ khá đa dạng. Những từ này làm cho kho từ vựng
của tiếng Việt thêm phong phú, bổ sung cho vốn từ của dân tộc ta. Đây là đóng
góp đáng trân trọng của phương ngữ Nam Bộ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bùi Đức
Tịnh, Lược khảo nguồn gốc địa danh Nam Bộ, TP.HCM, NXB Văn nghệ, 1999.
2. Hoàng Phê (cb), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà
Nẵng-Trung tâm Từ điển học, 2000.
3. Huỳnh Tịnh Của, Đại Nam quốc âm tự vị, SG,
1895-1896.
4. Lê Trung Hoa (cb) – Nguyễn Đình Tư, Từ điển địa
danh thành phố Sài Gòn – Hồ Chí Minh, Nxb Trẻ, 2003.
5. Lê Văn Đức, Việt Nam tự điển, Sài Gòn, Khai trí,
1970.
6. Nguyễn Hữu Hiếu, Tìm hiểu nguồn gốc địa danh Nam Bộ
qua chuyện tích và giả thuyết, HN, Nxb KHXH, 2004.
7. Nguyễn Tấn Anh, Những đặc điểm chính của địa danh ở
Vĩnh Long, Luận văn thạc sĩ khoa học ngữ văn, Trường ĐHKHXH – NV, TP.HCM, 2008.
8. Nguyễn Thanh Bình, Nguồn gốc địa danh hành chính
tỉnh Sóc Trăng, trong “Tài liệu hội thảo khoa học: Lịch sử hình thành và phát
triển tỉnh Sóc Trăng trước 1945”, bản đánh máy, 2000.
9. Sơn Nam, Đồng bằng sông Cửu Long hay Văn minh miệt
vườn , SG,1979.
10.Thanh Chí, Một số địa danh ở Bạc Liêu có nguồn gốc
là tên thực vật, Bạc Liêu xưa và nay, Xuân Ất Dậu, 2005, tr. 25 – 26.
11.Trần Hoàng Diệu, Nguyễn Quang Ân (cb), Địa chí Tiền
Giang, tập II, Ban Tuyên giáo tỉnh Tiền Giang và Trung tâm UNESCO Thông tin tư
liệu Lịch sử văn hoá Việt Nam, 2007.
12.Trương Ngọc Tường, Một số địa danh ở Tiền Giang,
Văn hoá nghệ thuật Tiền Giang, tháng 11 – 2000, tr.27 – 31.
13.Trương Vĩnh Ký, x. Lê Hương, Người Việt gốc Miên,
tr. 253 – 264. TS.Thái Văn Chải dịch phần Địa danh.
14.Vương Hồng Sển, Tự vị tiếng Việt miền Nam, HN, Nxb Văn hoá, 1993.