MỖI CLICK VÀO QUẢNG CÁO SẼ GIÚP CHÚNG TÔI PHỤC VỤ CÁC BẠN TỐT HƠN

Dàn ý phân tích bài thơ Viếng lăng Bác

Dàn ý phân tích bài thơ Viếng lăng Bác (Viễn Phương)

I. Mở bài

Cách 1: Gián tiếp (Giới thiệu chủ đề/ đề tài – Tác giả và tác phẩm – Nội dung cần nghị luận (nội dung chính của văn bản)

- Bác Hồ, tên gọi thân yêu vang âm trong trái tim bao người, đã trở thành cảm hứng cho biết bao thi sĩ. Đó là “Đêm nay Bác không ngủ” của Minh Huệ, “Người đi tìm hình của nước” của Chế Lan Viên....

- Ra đời vào tháng 4/1976, “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương đã làm phong phú thêm đề tài thơ về Bác.

- Bài thơ là niềm xúc động thiêng liêng, thành kính, lòng biết ơn và tự hào pha lẫn nỗi xót đau khi tác giả ra viếng lăng Bác. 

Dàn ý phân tích Viếng lăng Bác

Cách 2: Trực tiếp (Giới thiệu tác giả: vai trò, vị trí trong nền văn học VN, phong cách sáng tác – Giới thiệu tác phẩm: năm sáng tác, hoàn cảnh sáng tác… - Giới thiệu vấn đề cần nghị luận: nội dung chính của văn bản)

- Viễn Phương tên khai sinh là Phan Thanh Viễn, quê tỉnh An Giang. Ông là cây bút xuất hiện sớm nhất của lực lượng văn nghệ giải phóng ở miền Nam. Thơ ông giàu tình cảm, mơ mộng ngay trong những hoàn cảnh chiến đấu ác liệt.

- Ra đời vào tháng 4-1976 khi tác giả ra thăm miền Bắc, vào thăm lăng Bác, “Viếng lăng Bác” là tác phẩm tiêu biểu của Viễn Phương. Bài thơ là niềm xúc động thiêng liêng, thành kính, lòng biết ơn và tự hào pha lẫn nỗi xót đau khi tác giả ra viếng lăng Bác.

II. Phân tích

1. Cảm xúc của nhà thơ khi đến lăng Bác (khổ 1)

- Câu thơ mở đầu như một lời kể:

“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”

- Viễn Phương xưng “con” và gọi “Bác”. Cách xưng hô này thật gần gũi, ấm áp tình thân thương mà vẫn rất mực thành kính, thiêng liêng. Đồng thời, cũng diễn tả tâm trạng xúc động của người con ra thăm cha sau bao nhiêu năm xa cách.

- Nhà thơ sử dụng từ “thăm” thay cho từ “viếng”. “Viếng” là đến chia buồn với thân nhân người đã mất. Còn “thăm” là gặp gỡ, trò chuyện với người đang sống. Cách nói giảm, nói tránh như vậy nhằm giảm nhẹ nỗi đau thương mất mát. Khẳng định Bác vẫn còn mãi trong trái tim nhân dân miền Nam, trong lòng dân tộc.

- Cái hay của khổ thơ không chỉ ở từ ngữ bình dị mà còn ở hình ảnh cây tre vô cùng thân thuộc:

“Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát 

Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam 

Bão táp mưa sa, đứng thẳng hàng.” 

+ Ấn tượng đầu tiên với nhà thơ khi đến bên lăng Bác là hình ảnh “hàng tre”, hình ảnh tượng trưng cho làng quê, cho con người Việt Nam: giản dị, thân thuộc nhưng kiên cường, bất khuất…

+ Tác giả bật lên một tiếng “Ôi!” vừa đầy thương cảm vừa mang vẻ tự hào. Thương cảm vì dân tộc ta phải trải qua bao nhiêu “bão táp mưa sa”- bốn nghìn băn lịch sử chống ngoại xâm với bao nhiêu mồ hôi, nước mắt và cả máu đã đổ xuống. Tự hào vì tre vẫn “đứng thẳng hàng” như người Việt ta vẫn kiên cường, bất khuất trước mọi gian lao, thử thách.

=> Chỉ một khổ thơ ngắn thôi nhưng cũng đủ để thể hiện những cảm xúc chân thành, thiêng liêng của nhà thơ và cũng là của nhân dân đối với Bác kính yêu. 

2. Cảm xúc của nhà thơ khi đứng trước lăng Bác (khổ 2)

- Nhà thơ đã sử dụng một ẩn dụ nghệ thuật tuyệt đẹp để nói lên cảm nhận của mình khi đứng trước lăng Bác:

Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng

Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.

+ Hình ảnh “mặt trời đi qua trên lăng” là hình ảnh thực. Đó là mặt trời thiên tạo, là hành tinh quan trọng nhất của vũ trụ, nó gợi ra sự kì vĩ, sự bất tử, vĩnh hằng. Mặt trời là nguồn cội của sự sống, ánh sáng.

+ Hình ảnh “mặt trời trong lăng” là một ẩn dụ đầy sáng tạo, độc đáo – đó là hình ảnh của Bác Hồ. Giống như “mặt trời”, Bác Hồ cũng vĩ đại, vĩnh hằng, nguồn ánh sáng, nguồn sức mạnh của dân tộc. “Mặt trời” – Bác Hồ soi đường dẫn lối cho sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, giành độc lập tự do, thống nhất đất nước.

+ Ví Bác như mặt trời một mặt ca ngợi sự vĩ đại, công lao trời biển của Người đối với các thế hệ con người Việt Nam. Mặt khác bộc lộ rõ niềm tự hào của dân tộc Việt Nam khi có Bác Hồ - có được mặt trời của cách mạng soi đường chỉ lối cũng như ánh sáng của mặt trời thiên nhiên.

- Hình ảnh dòng người vào thăm lăng Bác đã được nhà thơ miêu tả một cách độc đáo và để lại nhiều ấn tượng:

Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ

Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân.

+ Từ láy “ngày ngày” có nghĩa tương tự như câu thơ cầu đầu trong khổ thơ, diễn tả cảnh tượng có thực đang diễn ra hàng ngày, đều đặn trong cuộc sống của con người Việt Nam: Những dòng người nặng trĩu nhớ thương từ khắp mọi miền đất nước đã về đây xếp hàng, lặng lẽ theo nhau vào lăng viếng Bác.

+ Bằng sự quan sát trong thực tế, tác giả đã tạo ra một hình ảnh ẩn dụ đẹp và sáng tạo: “tràng hoa”. “Tràng hoa” là ẩn dụ chỉ từng người một đang xếp hàng viếng lăng Bác mỗi ngày là một bông hoa ngát thơm. Những dòng người bất tận đang ngày ngày vào lăng viếng Bác nối kết nhau thành những tràng hoa bất tận dâng lên “bảy mươi chín mùa xuân” – 79 năm cuộc đời của Người.

-> Hình ảnh thơ trên biểu lộ tấm lòng ngợi ca, và biết ơn sâu sắc của nhà thơ, của nhân dân đối với Bác Hồ.

3. Cảm xúc của nhà thơ khi vào trong lăng (khổ 3)

                                        “Bác nằm trong giấc ngủ bình yên

                                        Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền

- Vào trong lăng, cảm nhận đầu tiên về không gian trong lăng là sự yên tĩnh, trang nghiêm cùng ánh sáng dịu nhẹ, trong trẻo của không gian trong lăng Bác. Đứng trước Bác, nhà thơ cảm nhận Người đang ngủ giấc ngủ bình yên, thanh thản giữa vầng trăng sáng dịu hiền.

- Tâm trạng xúc động của nhà thơ được biểu hiện bằng một hình ảnh ẩn dụ sâu xa:

                                        Vẫn biết trời xanh là mãi mãi

                                        Mà sao nghe nhói ở trong tim”

+ “Trời xanh” trước tiên được hiểu theo nghĩa tả thực đó là hình thiên nhiên mà chúng ta hằng ngày vẫn đang chiêm ngưỡng, nó tồn tại vĩnh hằng.

+ Mặt khác, “trời xanh” còn là một hình ảnh ẩn dụ sâu xa: Bác vẫn còn mãi với non sông đất nước, như “trời xanh” vĩnh hằng. Người đã hòa vào trời cao, nhập vào từng thước đất của tổ quốc. Cũng như hình ảnh “mặt trời”, hình ảnh “trời xanh” nhằm ca ngợi sự vĩ đại, bất diệt của Bác.

- Dù tin như thế nhưng mấy chục triệu người dân Việt Nam vẫn đau xót và nuối tiếc khôn nguôi trước sự ra đi của Bác – “Mà sao nghe nhói ở trong tim”.

+ “Nhói” là từ ngữ biểu cảm trực tiếp, biểu hiện nỗi đau đột ngột quặn thắt. Tác giả tự cảm thấy nỗi đau mất mát ở tận trong đáy sâu tâm hồn mình: nỗi đau uất nghẹn tột cùng không nói thành lời. Đó không chỉ là nỗi đau riêng tác giả mà của cả triệu trái tim con người Việt Nam.

=> Cảm xúc này là đỉnh điểm của nỗi nhớ thương, của niềm đau xót. Nó chính là nguyên nhân dẫn đến những khát vọng ở khổ cuối bài thơ.

4. Tâm trạng lưu luyến của nhà thơ khi rời xa lăng Bác (khổ 4)

- Nếu ở khổ thơ đầu, nhà thơ giới thiệu mình là người con miền Nam ra thăm Bác thì trong khổ thơ cuối, nhà thơ lại đề cập đến sự chia xa Bác:

“Mai về miền Nam thương trào nước mắt”.

Câu thơ như một lời giã biệt. Từ “thương trào” diễn tả cảm xúc thật mãnh liệt, luyến tiếc, bịn rịn không muốn xa nơi Bác nghỉ.

- Mặc dù lưu luyến muốn được ở mãi bên Bác nhưng tác giả cũng biết rằng đến lúc phải trở về miền Nam. Và chỉ có thể gửi tấm lòng mình bằng cách muốn hóa thân, hòa nhập vào những cảnh vật quanh lăng để được luôn ở bên Người trong thế giới của Người:

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.

+ Điệp ngữ “muốn làm” đã thể hiện ước muốn tha thiết, mãnh liệt của tác giả.

+ Nhà thơ ao ước được hóa thân thành con chim nhỏ cất tiếng hót làm vui lăng Bác, thành đóa hoa đem sắc hương, điểm tô cho vườn hoa quanh lăng.

+ Đặc biệt là ước nguyện “Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này” để nhập vào hàng tre bát ngát, canh giữ giấc ngủ thiên thu của Người. “Cây tre trung hiếu” là hình ảnh ẩn dụ thể hiện lòng kính yêu, sự trung thành vô hạn với Bác, nguyện mãi mãi đi theo con đường cách mạng mà Người đã đưa đường chỉ lối.

5. Nghệ thuật

- Bài thơ có giọng điệu phù hợp với tâm trạng của nhà thơ và mọi người khi vào lăng viếng Bác. Thể thơ tám có cách gieo vần khá linh hoạt. Nhịp thơ chậm rãi, diễn tả sự trang nghiêm và cảm xúc thành kính.

- Hình ảnh thơ có nhiều sáng tạo. Nhà thơ kết hợp giữa hình ảnh thực và hình ảnh ẩn dụ, tượng trưng: “mặt trời trong lăng”, “tràng hoa”, “trời xanh”, “vầng trăng” vừa quen thuộc, gần gũi, vừa trang nghiêm, sâu sắc, có ý nghĩa khái quát và giá trị biểu cảm rất lớn.

III. Kết bài

Viếng lăng Bác một bài thơ hay bởi nó được tạo nên từ những cảm xúc, rung động chân thành của trái tim nhà thơ, đồng thời cũng tiếng lòng của tất cả chúng ta.

Bài thơ thể hiện tâm trạng xúc động, tấm lòng thành kính, biết ơn sâu sắc của tác giả khi vào lăng viếng Bác.

Đăng nhận xét

Mới hơn Cũ hơn

Liên kết

Quảng cáo